5 bài văn nghị luận ô nhiễm tiếng ồn

Bài văn số 1   Các nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn gồm phương tiện giao thông đường phố, máy bay, đường sắt, âm nhạc, máy móc công nghiệp… Tình trạng này kéo dài ảnh …

Bài văn số 1

 

Các nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn gồm phương tiện giao thông đường phố, máy bay, đường sắt, âm nhạc, máy móc công nghiệp… Tình trạng này kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người.Nhiều nghiên cứu cho thấy, tiếng ồn là một trong những nguyên nhân gây tăng huyết áp và các bệnh tim mạch máu. Điều này khiến người ta nghĩ đến sự ồn ào tại các thành phố đông đúc xe cộ như Hà Nội, TP.HCM với đầy lo ngại…Một số công trình nghiên cứu quy mô lớn gần đây đã xếp ô nhiễm tiếng ồn đứng đầu trong danh sách ô nhiễm không khí có hại đối với sức khỏe con người. Ô nhiễm tiếng ồn có hại cho cả người lớn lẫn trẻ con. Trẻ em phải tiếp xúc với tiếng ồn liên tục sẽ gặp khó khăn với việc học tập. Nhất là khả năng hoàn thành bài tập và học ngôn ngữ bị ảnh hưởng rất nhiều.Ô nhiễm tiếng ồn cũng ảnh hưởng nhiều đến giấc ngủ của con người. Nếu một người thiếu ngủ thì toàn bộ cơ thể sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Đó là điều không thể tránh khỏi.Thường xuyên tiếp xúc với tiếng ồn sẽ khiến con người bị ù tai (luôn nghe thấy âm thanh rè rè bên tai). Tình trạng này tác động xấu đến hệ thần kinh và sức khỏe của bạn.Ô nhiễm tiếng ồn cũng tác động đến trí nhớ của con người và những khả năng nhận thức khác. Nó đặc biệt ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ bài học của trẻ em."Mức ô nhiễm tiếng ồn có thể chấp nhận được là khoảng 40 decibel (dB). Tất cả âm thanh vượt quá mức này có thể nguy hại đến khả năng nghe và sức khỏe của bạn", các nhà nghiên cứu cảnh báo.Người thành phố dễ mắc bệnh cao huyết ápCác nghiên cứu cũng cho thấy rằng, ở thành phố người dân dễ bị cao huyết áp hơn những người ở vùng nông thôn. Những người dân cư trú ở gần các đường sắt, đường cao tốc hay các khu phố nhỏ chật chội có nhiều xe cộ qua lại hay nhiều công xưởng hoạt động cũng vậy. Tỉ lệ người mắc bệnh cao huyết áp và tim mạch ở những nơi này cao hơn những nơi không bị ô nhiễm tiếng ồn là từ 15 – 20%, đó là  một tỉ lệ không phải là nhỏ.Tiếng ồn ngoài việc gây bệnh điếc nghề nghiệp  cho một số người lao động trực tiếp nó còn làm cho cơ thể tăng tiết các chất trung gian nếu có quá nhiều sẽ gây hại cho cơ thể như cathecholamine, cortisone, serotonine… Những chất này tham gia vào việc điều phối mọi hoạt động cân bằng của cơ thể, trong đó có huyết áp và hoạt động của trái tim. Những sự gia tăng quá mức của các chất này sẽ đưa đến tình trạng gia tăng huyết áp và rối loạn hoạt động của tim là nguyên nhân gây ra tử vong cho rất nhiều người.Cũng đã có khá nhiều cảnh báo rằng ở các đô thị lớn ở Việt Nam hiện nay do quy hoạch kém, do những thói quen xấu đã tồn tại khá lâu trong tâm trí của người dân, do sự tắc trách của một số nhà quản lý…

Bài văn số 2

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, con người lun chịu nhiều áp lực từ cái ăn cái mặc, từ lối sống nhộn nhịp của các đô thị, từ những áp lực môi trường mà họ đang sống. Trong đó có áp lực mà họ không nhận ra đó là tiếng ồn trong các đô thị. Trước đây tiếng ồn không được con người quan tâm, chú ý vì chúng không phài là tác nhân gây hại đối với họ. Phải chăng, họ chưa hiểu hết về tác động của tiếng ồn; vấn đề ở đây là tiếng ồn chỉ tác động đến con người khi đủ một cường độ và thời gian tác động nhất định, vì vậy tiếng ồn xét một khía cạnh nào đó không tác hại lắm và người ta chẳng quan tâm. Hiện nay nước ta đang trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa nên có rất nhiều đô thị mọc lên. Nhiều hoạt động kinh tế xã hội sẽ tập trung về đô thị, dân số cũng sẽ tăng theo cùng với sư6 phát triển đô thị đó. Có rất nhiều vấn đề môi trường phát sinh như nước thải, khí thải, chất thải rắn, dân sinh mà con người đã nhận ra sự nguy hại của chúng đối với sức khỏe của mình, tuy nhiên có những tác động tiềm tàng từ một vấn đề nào đó mà con người không nhận ra, đó chính là tiếng ồn trong các đô thị. Bài báo cáo này sẽ trình bày về vấn đề hiện trạng và ô nhiễm tiếng ồn phát sinh trong các đô thị lớn ở Việt Nam cũng như tác hại của chúng đối với sức khỏe con người; trên cơ sở thực tiễn đó sẽ trình bày một số giải pháp khắc phục ô nhiễm tiếng ồn; mục đích góp phần làm cho môi trường mãi là chỗ dựa, là không gian sống an toàn đúng như chức năng vốn có của nó. CHƯƠNG 1 : TIẾNG ỒN VÀ PHÂN LOẠI TIẾNG ỒN 1.1 Khái quát về tiếng ồn 1.1.1 Khái niệm tiếng ồn Tiếng ồn là tập hợp của những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, hỗn loạn gây cảm giác khó chịu cho người nghe, có ảnh hưởng xấu đến làm việc và nghỉ ngơi của con người. Tuy nhiên có âm thanh không làm mất yên tĩnh vào ban ngày nhưng lại khó chịu vào ban đêm; âm nhạc có thể gây hứng thú cho người này nhưng lại là tiếng ồn khó chịu cho người khác. Do vậy những âm thanh có tác dụng kích thích quá mạnh, xảy ra không đúng lúc, đúng chỗ đều có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Tiếng ồn ở mức có hại phụ thuộc vào các trường hợp cụ thể. Ða số linh trưởng là những động vật gây ồn và con người cũng không phải ngoại lệ. Cho nên chỗ đông người, như đô thị là những nơi rất ồn ào. Ô nhiễm tiếng ồn là chuyện không mới meû gì, nhưng ở những vùng phát triển mạnh về công nghệ thì ô nhiễm tiếng ồn đạt một qui mô mới. Âm thanh là dao động cơ học, được dao động dưới hình thức sóng trong môi trường đàn hồi và được thính giác của người tiếp thu. Trong không khí tốc độ âm thanh là 343m/s, còn trong nước là 1450 m/s. Tần số của âm thanh được đo bằng Hz, là số dao động trong 1 giây.Tai người có thể cảm nhận được tần số từ 16 Hz đến 20.000 Hz. Dưới 16 Hz gọi là hạ âm. " Tai người không nghe được Trên 20.000 Hz gọi là siêu âm Mức tần số nghe chuẩn nhất là từ 1.000 Hz đến 5.000 Hz. 1.1.2 Đơn vị tiếng ồn Đơn vị tiếng ồn hay còn gọi là đơn vị âm thanh là dB: là thang đo logarit, còn gọi là mức cường độ âm, gọi tắt là mức âm. L = 10lg [dB] I: Cường độ âm, [W/m] I: Cường độ âm ở ngưỡng nghe, I=10 [W/m]. Bảng thang bậc Decibel là sự đo mức độ năng lượng tiếng ồn. Thang này tính theo logarithm, có ý nghĩa là mức 130 decibel thì 10 lần lớn hơn 120 decibel, và 100 lần lớn hơn 110 decibel. Trong môi trường yên tĩnh, tiếng ồn ở mức 50 decibel hay ít hơn . Ở 80 decibel tiếng ồn trở nên khó chịu ( gây phiền nhiễu, annoying). Vậy mà ở thành phố, con người thường phải chịu đến mức 110 decibel hay hơn, như gần các máy dập kim loại, sân bay, discotheque (Dasmann, 1984). Các mức độ tiếng ồn khác nhau có thể gây các phản ứng khác nhau cho người (Bảng 1.1). Bảng 1.1 Bảng mức độ tiếng ồn và phản ứng của người. Mức Decibel Nguồn tiêu biểu Phản ứng của con người 150 140 Tiếng nổ động cơ phản lực Ðiếc hoàn toàn 130 Giới hạn tối đa của tiếng nói 120 Tiếng nổ động cơ phản lực cách 200 ft 110 Discothegue Kèn xe hơi cách 3ft Máy đập kim loại 100 Tiếng nổ phản lực cơ cách 2000 ft Súng nổ cách 0,5 ft Rất có hại 90 Trạm xe ngầm New York Xe tải nặng cách 50 ft Hại thính giác (8 giờ) 80 Búa hơi cách 50 ft Có hại 70 Tiếng thắng xe lửa cách 50 ft Lưu thông trên xa lộ cách 50ft nghe điện thoại 60 Máy điều hoà không khí cách 20 ft Gây chú ý (Intrusive) 50 40 Lưu thông của xe hơi nhẹ cách 50 ft Phòng khách Phòng ngủ Yên tĩnh 30 Thư viện Tiếng thì thầm Rất yên tĩnh 20 Phòng thu thanh 10 0 Tai cảm nhận được Ngưỡng nghe được Nguồn: Hội đồng Chất lượng môi trường Hoa Kỳ (1970) trong Dasmann (1984) Tiếng ồn trong xã hội hiện đại: tiếng gầm rú của máy bay, tiềng ầm ầm của xe tải chất đầy hàng, tiếng va đập ồn ào của máy móc… Sự ồn ào chẳng những gây khó chịu mà còn phá hoại sức khỏe và ngày càng thậm tệ hơn theo sự mở mang kinh tế. 1.1.3 Cơ quan tiếp nhận âm thanh Cơ quan tiếp nhận âm thanh là tai, tai người cấu tạo gồm 3 phần: tai ngoài, tai giữa và tai trong được mô tả như hình sau: Hình 1.1 Sơ đồ cấu tạo tai Tai ngoài có vành tai phần duy nhất có thể nhìn thấy từ phía ngoài và ống nghe. Vành tai (hay còn gọi là loa tai) hoạt động giống như một chiếc anten parabon, hướng âm thanh vào trong ống nghe. Âm thanh sẽ đi qua màng nhĩ nằm ở loái vào tai giữa. Tai giữa nằm trên xương thái dương, thông với khoang mũi qua vòi Ot-tat. Đó chính là lý do tại sao áp suất tại tai giữa luôn cân bằng với áp suất bên ngoài, và những áp suất bên ngoài sẽ tạo nên những tiếng “lạch tạch” trong tai giữa. Âm thanh này chỉ kết thúc khi áp suất bên trong và bên ngoài cân bằng. Âm thanh đi qua màng nhĩ tới một cửa sổ hình elip của tai trong và được truyền đi nhờ 3 xương có kích thích bé nhất trong cơ thể con người đó là: xương đe, xương búa và xương bàn đạp. những xương này chuyển động được là nhờ các day cơ có kích thước vo cùng nhỏ bé. Và ở tai trong, mọi rung động điều được chuyển thành tín hiệu thần kinh và chuyển lên bộ não sử lý. Các tế bào thụ cảm thính giác là các tế bào có tiêm mao nằm chen giửa các tế bào điệm tạo thành cơ quan coocti (tương ứng với tế bào nón và tế bào que trong màng lưới của tế bào mắt) các tế bào thụ cảm thính giác gồm 4-5 dãy: 1 dãy trong và 3-4 dãy ngoài, chạy suốt dọc màng cơ sở. Tùy theo âm cao (thanh), thấp (trầm) hay to, nhỏ mà các tế bào thụ cảm thính giác ở các vùng khác nhau trên cơ quan coocti bị hưng phấn. Các âm cao gây hưng phấn các tế bào thụ cảm thính giác ở đoạn gần cửa bầu, còn các âm thấp gây hưng phấn mạnh các tế bào thụ cảm thính giác ở gần đỉnh ốc tai theo cơ chế cộng hưởng âm. Ở gần cửa bầu dây chắng ngang trên màng cơ sở ngắn sẽ cộng hưởng với âm thanh (có tần số cao), còn càng xa cửa bầu các dây chắng ngang trên màng cơ sở càng dài và cộng hưởng với âm có tần số càng giảm. Các dây dài nhất ở đỉnh ốc tai tiếp nhận các âm trầm (tần số thấp). Đối với các âm nhỏ (yếu) hoặc to (mạnh) sẽ gây hưng phấn các tế bào thụ cảm thính giác khác nhau trong cùng một dãy, vì ngưỡng kích thích thấp sẽ cho cảm giác âm nhỏ, còn các tế bào có ngưỡng kích thích cao sẽ cho cảm giác về âm to (mạnh). Khi các tế bào thụ cảm thính giác bị hưng phấn sẽ làm suất hiện xung thần kinh theo dây thần nảo số về trung khu thính giác ở vùng thái dương, phân tích để cho ta cảm giác về các sống âm thanh mà tai thu được (cao, thấp, nhỏ, to). 1.2 Phân loại tiếng ồn 1.2.1 Phân loại theo đặc tính nguồn ồn Để sơ bộ đánh giá tiếng ồn theo đặc tính của nguồn ồn có thể dùng mức ồn tổng cộng đo được trên máy đo tiếng ồn gọi là “mức âm theo dB”. Bảng 1.2 Phân loại theo nguồn tiếng ồn Phân loại Nguồn tiếng ồn Điển hình Mức ồn Tiếng ồn cơ hoc Sinh ra do sự chuyển động của các chi tiết máy hay bộ phận của máy móc có khối lượng không cân bằng. Máy phay,… Máy tiện: 93-96 Máy bào: 97 Tiếng ồn va chạm Sinh ra do một số quy trình công nghệ. Rèn, tán,… Xưởng rèn: 98 Xưởng đúc: 112 Gò, tán: 113-117 Tiếng ồn khí động Sinh ra do hơi chuyển động với vận tốc cao. Động cơ phản lực, máy nén khí,… Môtô: 105 Turbine phản lực: 135 Tiếng nổ & xung động Sinh ra khi động cơ đốt trong hoạt động. Xưởng ôtô,… 1.2.2 Phân loại theo quan điểm môi trường Do nguồn ngốc tự nhiên như là hoạt động của núi lửa và động đất. Tuy nhiên đây chỉ là nguyên nhân thứ yếu mà thôi. Bởi do chỉ lúc nào có động đất và núi lửa thì lúc đó mới có tiếng ồn xuất hiện và nó chỉ gây ảnh hưởng cho những người sống gần khu vực đó. Mặc khác đây không phải là tiếng ồn có tính chu kỳ mà nó chỉ xảy ra một cách ngẫu nhiên. 1.2.3 Phân loại theo loại hình hoạt động sinh ra tiếng ồn Có thể nói tiếng ồn rất đa đạng xuất phát từ nhiều loại hình hoạt động khác nhau. Theo vị trí tiếng ồn được phân làm 2 loại là tiếng ồn biên ngoài và tiếng ồn trong nhà. Tiếng ồn bên ngoài: trong môi trường đô thị, nguồn gây ồn bên ngoài rất đa dạng, có thể tính đến các nguồn sau: Giao thông: Hiện nay phương tiện giao thông đang ngày càng tăng với một tốc độ cao, mật độ xe lưu thông trên đường phố ngày càng lớn gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng động cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe. Bên cạnh đó số lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên đường phố Việt Nam khá nhiều đã tạo nên sự ô nhiễm tiếng ồn đáng kể. Máy bay cũng là nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn không thể bỏ qua. Lúc máy bay cất cánh và hạ cánh là lúc mà các hộ dân sống gần sân bay phải chịu một tần số âm thanh không nhỏ,vì vậy nên di dời sân bay ra xa khu vực đông dân cư để giảm tiếng ồn. Xây dựng: Hiện nay, việc sử dụng máy móc trong xây dựng là khá phổ biến, đây là một nguồn gây ô nhiễm tiếng ồn đáng kể. Công nghiệp và sản xuất: Trong công nghiệp và sản xuất hiện nay, việc sử dụng máy móc được xem là không thể thiếu. Tuy nhiên do ý thức của cơ sở sản xuất và của một số khu công nghiệp đã làm cho mức độ ô nhiễm tiếng ồn ngày càng tăng cao. Sinh hoạt: Việc bật máy nghe nhạc quá lớn cũng tác động không nhỏ đến thính giác của người xung quanh, nhất là trong các vũ trường hay quán bar. Đây là nguồn gây ô nhiễm được xem là khó xử lý nhất và chỉ dựa vào ý thức của người dân là chủ yếu. Tiếng ồn trong nhà: con người tiếp súc thường và nhiều nhất là nguồn tiếng ồn gây ra trong nhà. Trong đó, ta xét đến các dạng lan truyền tiếng ồn: Tiếng ồn lan truyền trong không khí còn gọi là tiếng ồn không khí từ tiếng nói, tiếng của đài thu phát thanh, tivi, cat-set,… Tiếng ồn va chạm: tiếng ồn do va chạm qua tường, sàn bê tông và lan đến các căn hộ bên cạnh. Tiếng ồn va chạm có thể là tiếng bước chân, tiếng đóng đinh…tiếng ồn do chuyển động của các thiết bị quay trong nhà như quạt, máy giặt… Tiếng ồn khí động sinh ra do chuyển động rối của không khí và hạt rắn trong đường ống công nghệ trong nhà xưởng như tiếng ồn trong óng khói (thường vào khoảng 87-95dBA)… CHƯƠNG 2: Ô NHIỄM TIẾNG ỒN VÀ TÌNH HÌNH Ô NHIỄM TIẾNG ỒN Ở VIỆT NAM 2.1 Ô nhiễm tiếng ồn Ô nhiễm tiếng ồn là hiện tượng tiếng ồn có mức ồn đo được lớn hơn tiêu chuẩn cho phép, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Tiếng ồn hiện nay đã là một tác nhân gây ô nhiễm ở tất cả các thành phố trên thế giới và gây ảnh hưởng xấu cho sức khỏe con người. Ô nhiễm tiếng ồn là vấn đề bức xúc của các thành phố đang phát triển trong đó có Việt Nam. Ô nhiễm tiếng ồn đô thị: Các đô thị càng phát triển, mức ô nhiễm tiếng ồn càng cao. Thực tế phát triển của các đô thị lớn trên thế giới đã chứng minh rằng ô nhiễm tiếng ồn trong đô thị tỷ lệ thuận với sự phát triển của đô thị, các đô thị càng phát triển thì mức độ ô nhiễm tiếng ồn càng cao vì âm thanh và tiếng ồn đô thị gắn chặt với hoạt động sống của đô thị. Trong đô thị, các nguyên nhân gây ồn rất đa dạng, phong phú nhưng đều có nguồn gốc từ chính các hoạt động giao thoâng vaän taûi hàng ngày của người dân. 2.2 Tình hình ô nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam Gắn liền với quá trình phát triển công nghiệp và mạng lưới giao thông, hiện trạng ô nhiễm tiếng ồn ở Việt Nam ngày càng trở nên đáng báo động và đặc biệt là ở các đô thị lớn, các trung tâm công nghiệp như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Ô nhiễm tiếng ồn và tình hình ở Việt Nam có thể chia thành các nhóm nhỏ với các nguyên nhân chính sau: 2.2.1 Ô nhiễm tiếng ồn ở các đơn vị sản xuất Hình 1.2 Tiếng ồn trong sản xuất Hiện nay tại các thành phố lớn, nhỏ và các tỉnh của Việt Nam tình trạng ô nhiễm tiếng ồn cũng có mặt ở nhiều nơi như các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ lẻ như các xưởng cơ khí, nhà máy đường, nhà máy xi măng hay tại các bến tàu các bến cảng nhỏ. Bảng 2.1 Tổng hợp mức ồn trung bình tại các khu vực sản xuất của Tp.HCM Khoảng thời gian Tiểu thủ công nghiệp KCN TCVN 5949-1998 Đợt 1 Đợt 2 Đợt 1 Đợt 2 6h-18h 65,4 65,3 60,2 63,1 75 18h-22h 63,5 63,4 58,9 56,2 70 22h-6h 59,5 58,3 56,3 57,2 50 Việc sử dụng các loại máy móc trong công nghiệp sản xuất khá phổ biến. Tuy nhiên do sự thiếu ý thức của các cơ sở này đã làm cho mức độ ô nhiễm tiếng ồn đang ngày càng tăng cao. Việc sử dụng rất nhiều máy móc khi hoạt động sẽ gây ra tiếng ồn đáng kể. Ở đây còn xuất hiện nhiều công nghệ gây ra tiếng ồn lớn, và là nơi thường xuyên có sự va chạm giữa các vật thể rắn với nhau, cùng sự chuyển động hỗn loạn giữa khí và hơi. Sau đây là một số minh họa mức ồn (đo ở khoảng cách 15m). Bảng 2.2 Mức ồn của một số công nghệ sản xuất trong công nghiệp STT Loại phương tiện Mức ồn 1 Xưởng dệt 110 dB 2 Xưởng gò 113-114 dB 3 Xưởng rèn 100-120 dB 4 Xưởng đúc 112 dB 5 Máy cưa 82-85 dB 6 Máy đập 85 dB 2.2.2 Ô nhiễm tiếng ồn từ giao thông Hình 1.3 Tiếng ồn trong giao thông Ở các đô thị lớn, trong các nguồn sinh ra tiếng ồn thì các phương tiện giao thông vận tải đóng vai trò chủ yếu (60-80%). Phần lớn tại các điểm đo trên các trục giao thông chính của các đô thị lớn, nơi mà có mật độ giao thông lưu thông đông đúc, cường độ xe tải lớn, đều vượt quá Quy chuẩn Việt Nam về tiếng ồn, đặc biệt là vào các giờ cao điểm. Hiện nay phương tiện giao thông đang ngày càng tăng với mức độ “chóng mặt”. Theo số liệu thống kê từ Cục Đăng Kiểm Việt Nam vào năm 2009 cả nước có khoảng 29 triệu môtô và xe máy và năm 2010 sẽ có khoảng 24 triệu xe. Đến năm 2015 dự báo lượng xe máy lưu hành trong cả nước khoảng 31 triệu xe. Tính riêng Hà Nội đã là 4,6 triệu phương tiện và thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 5,5 triệu phương tiện, trong đó ở các thành phố lớn thì con số gia tăng tính trung bình là 10% mỗi năm. Mật độ xe lưu thông trên đường phố ngày càng lớn gây ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng của động cơ, tiếng còi cũng như tiếng phanh xe, số lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên đường phố càng nhiều gây ô nhiễm tiếng ồn càng cao vì sự rung động của các bộ phận trên xe gây nên. Sau đây là sự minh họa tiếng ồn do một số phương tiện giao thông gây nên: Bảng 2.3 Mức ồn của một số phương tiện giao thông STT Loại phương tiện Mức ồn 1 Xe nhỏ 77 dB 2 Xe khách nhỏ 79 dB 3 Xe khách vừa 84 dB 4 Xe thể thao 91 dB 5 Xe quân sự 120-135 dB 6 Xe chở rác 82-88 dB 7 Tiếng máy bay 85-90 dB 8 Tiếng còi tàu 75-105 dB Tại Hà Nội cũng như thành phố Hồ Chí Minh vấn đề ô nhiễm tiếng ồn hiện tại đã ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống sinh hoạt, sức khỏe, cũng như cuộc sống văn minh của một đô thị. Tại Hà Nội theo số liệu quan trắc của Sở Tài Nguyên và Môi Trường đo được từ ngày 1/12/2009 đến ngày 30/6/2010 trong đề án “thực hiện cập nhật cơ sở dử liệu và đánh giá tình hình ô nhiễm không khí và tiếng ồn cục bộ nhằm đưa ra giải pháp quản lý và cải thiện môi trường” cho thấy mức ồn trên quốc lộ 5 (Sài Đồng) là 80dBA, quốc lộ 1 (Giáp Bát) là 77dBA. Riêng tiếng ồn vào ban đêm từ (22h-6h sáng hôm sau), so với tiêu chuẩn cho phép (50dBA) thì kết quả quan trắc đo được ở đoạn đường nào cũng vượt tiêu chuẩn 1-2 lần. Tại thành phố Hồ Chí Minh vào đầu năm 2009 chi cục bảo vệ môi trường TP.HCM đã đo tiếng ồn tại 150 điểm quan trắc đặt trên 30 tuyến đường của TP.HCM, kết quả thật đáng lo ngại.

Bài văn số 3

Xã hội ngày càng hiện đại, phát triển đất nước ở các lĩnh vực là cần thiết để đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, nhưng bên cạnh đó, cũng có nhiều vấn đề cấp bách, những yếu tố ảnh hưởng  làm thụt lùi sự đi lên của đất nước. Và môi trường là vấn đề được nhiều quốc gia quan tâm, và đặc biệt vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đang trong tình trạng báo động đem lại nhiều hậu quả xấu nếu không có giải pháp và chính sách kịp thời. Ô nhiễm môi trường đang diễn ra hàng giờ và càng trở nên phức tạp hơn rất nhiều và thế hệ trẻ cần có ý thức cao trong việc hiểu được nguy hiểm mà ô nhiễm môi trường mang lại mà trau dồi bản thân tốt hơn. Vấn đề ô nhiễm môi trường đang nhận được nhiều sự quan tâm của đảng và nhà nước nói chung và của người dân nói riêng. Sống trong xã hội hiện đại với đầy đủ cơ sở vật chất, điều kiện đáp ứng nhưng giữ gìn sao cho xã hội luôn văn minh giàu đẹp là không phải dễ dàng khi có nhiều yếu tố tác động và làm ảnh hưởng, nhất là những yếu tố bên ngoài môi trường. Môi trường sống của con người bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, ảnh hưởng đến cuộc sống sự phát triển của con người và mọi sinh vật, môi trường gồm hai loại là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Do đó, môi trường là rất quan trọng đối với xã hội cũng như đời sống của nhân dân, vấn đề ô nhiễm môi trường là nỗi lo lắng của nhiều người dân và mọi người cần có ý thức cũng như sự hiểu biết về những vấn đề liên quan đến ô nhiễm môi trường để có hướng giải quyết tốt nhất.Thực trạng ô nhiễm môi trường đang diễn ra rất nghiêm trọng, cụ thể nhiều biểu hiện về ô nhiễm môi trường đưa ra là minh chứng cho sự suy giảm sinh thái đất nước cũng như làm ảnh hưởng đến môi trường xanh sạch đẹp. Biểu hiện cụ thể là ô nhiễm không khí, nước, đất : Ô nhiễm không khí : Hiện tượng các nhà máy, các ống thoát khí của các xí nghiệp đã và đang thải ra môi trường không khí một nguồn cacbonic khổng lồ, các loại axit độc hại, các loại khí gây hiệu ứng nhà kính, khói bụi xe hơi, xe cơ động phân phối lớn. Môi trường không khí ngày càng bị ô nhiễm hết sức nặng nề, đặc biệt là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đã vượt qua ngưỡng mức cho phép về ô nhiễm môi trường, những năm gần đây nồng độ chì đã tăng lên ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân và hậu quả của ô nhiễm không khí mang lại rất nặng nề. Ô nhiễm môi trường nước :Tình trạng ô nhiễm nguồn nước đang ngày càng báo động trong cuộc sống hiện đại, biểu hiện một số khu công nghiệp đã xả nước thải không qua xử lý ra môi trường hay nước sinh hoạt ở các hộ gia đình thải trực tiếp ra dòng nước, hiện tượng xả rác ra ao, hồ sông suối ở các vùng miền đang xảy ra trầm trọng, việc sử dụng nước sạch không chiếm tỉ lệ cao. Ô nhiễm nước bởi kim loại nặng tác động tiêu cực tới môi trường sinh vật và con người, kim loại nặng tích lũy theo chuỗi thức ăn thâm nhập và cơ thể con người. Nước bị ô nhiễm còn do sinh vật, vi sinh vật, sinh vật có trong nước với nhiều dạng khác nhau, đáng chú ý là các vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh làm cho nguồn nước không còn đảm bảo chất lượng, biến đổi màu sắc của dòng nước khi sự xuất hiện của xác sinh vật để lâu dưới nước, hậu quả đem lại nghiêm trọng lớn. Ô nhiễm môi trường đất : Đất là môi trường sinh sống chủ yếu của nhiều loài sinh vật, đất ô nhiễm bị gây ra bởi sự có mặt của hóa chất xenobiotic, gây ra bởi các hoạt động công nghiệp, các hóa chất nông nghiệp hoặc do ý thức vứt rác thải không đúng quy định. Ngày nay tình trạng ô nhiễm môi trường đất càng bị thoái hóa và nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều vấn đề xã hội cũng như đến sức khỏe của người dân. Ô nhiễm môi trường đất thường xuất hiện ở các vùng nông thôn chủ yếu làm nghề nông mà công việc chủ yếu là trồng lúa nước và chăn nuôi gia súc. Những hành động tiêu cực trong công việc cũng là phần nguyên nhân gián tiếp làm đất xung quanh nơi sinh sống bị ô nhiễm nặng.Ô nhiễm môi trường là vấn đề khó thể tính toán trước, hậu quả cũng như những tác hại tiêu cực thường để lại trong thời gian dài. Thấy được những biểu hiện về ô nhiễm môi trường mà có kế hoạch cũng như phương án tốt nhất để bảo vệ môi trường sống xung quanh chúng ta. Hậu quả mang lại ô nhiễm môi trườngÔ nhiễm môi trường là mối quan tâm lớn không chỉ các quốc gia trên thế giới, đặc biệt ở Việt Nam, khi xã hội hiện đại, tình trạng ô nhiễm môi trường càng là câu chuyện được bàn nhiều nhất đối với cấp quản lý và người dân sinh sống. Hậu quả ô nhiễm môi trường mang lại rất nghiệm trọng, sự nghiêm trọng nhất kể đến là sức khỏe của người dân. Hậu quả ô nhiễm môi trường đến sức khỏe con người Đối với ô nhiễm môi trường không khí : Ô nhiễm môi trường không khí có ảnh hưởng khá lớn đến quá trình hô hấp của con người. Khi con người tiếp xúc với môi trường bên ngoài, duy trì sự sống bằng chính việc hấp thụ không khí, mà không khí ô nhiễm từ các khí thải của phương tiện giao thông làm ảnh hưởng đến phổi, bên cạnh đó, bụi là yếu tố nguy hiểm nhất vì nó tồn tại và phát tán trong thời gian dài với kích thước nhỏ. Ô nhiễm không khí ban đầu đem lại những hiệu quả tưởng như rất nhỏ như chóng mặt, đau đầu, nhưng để lâu dài không phát hiện được những căn bệnh tái phát như căn bệnh liên quan đến tim mạch thì sẽ rất nguy hiểm trong quá trình điều trị. Tùy từng nhóm đối tượng sẽ có hậu quả đem lại khác nhau tùy vào sức khỏe cũng như cơ điện của mỗi người thích ứng và tùy vào mức độ ô nhiễm. Ngoài ra, sóng nhiệt hay tiếng ồn, biến đổi khí hậu cũng gây ra hậu quả cho con người về thính giác do tiếng ồn, sự tăng giảm bất thường của nhiệt độ khiến gây ra những bệnh như đột quỵ nhiệt, các căn bệnh trong cơ thể sẽ dần tái phát nặng.

Bài văn số 4

 Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế, xã hội và khoa học kỹ thuật, ô nhiễm tiếng ồn đã và đang có những tác động xấu tới sức khỏe con người và hạ thấp chất lượng cuộc sống của xã hội, như làm che lấp tiếng nói trong trao đổi thông tin, làm phân tán tư tưởng và dẫn đến làm giảm hiệu quả lao động, tiếng ồn quấy rối sự yên tĩnh và giấc ngủ của con người.       Tác động lâu dài của tiếng ồn đối với con người sẽ gây ra bệnh mất ngủ, suy nhược thần kinh, cũng như làm trầm trọng thêm các bệnh về tim mạch và huyết áp cao. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu và Quy hoạch Môi trường đô thị – nông thôn năm 1998, trên các trục đường giao thông đô thị của Hà Nội, mức ồn tương đương trung bình của các dòng xe thường rất lớn, trung bình ban ngày có thể dao động trong khoảng từ 71,3dB đến 79,2dB, ban đêm từ 67,3dB đến 73,0dB.Theo kết quả nghiên cứu của Sở khoa học công nghệ và môi trường Hà Nội, tại các điểm khảo sát phổ biến ở Hà Nội (một số nút giao thông và tuyến phố chính) mức ồn giao thông trung bình từ 77-82dB vào năm 2000. So với kết quả khảo sát trước đó 2- 3 năm trong cùng điều kiện về thời gian và không gian thì trung bình mức ồn tăng 4-5dB. Như vậy mức ồn giao thông hiện nay ở thành phố Hà Nội khá lớn, cao hơn trị số tiêu chuẩn cho phép đối với khu vực công cộng và khu dân cư (50-70dB vào ban ngày). Mức ồn giao thông càng lớn, phản ánh mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường càng cao, điều đó có nghĩa là chất lượng cuộc sống ngày càng giảm sút. Một công trình nghiên cứu khoa học tại Mỹ cho thấy: Năng suất lao động của các viên chức trong tình trạng yên tĩnh cao hơn khi có tiếng ồn 9% và sai sót trong việc ghi chép tài liệu ít hơn 29%, còn khi làm việc ở các văn phòng có mức ồn 100dB con người sẽ phạm sai sót nhiều gấp 2 lần so với làm việc ở mức ồn 70dB. Ở nhiều nước phương Tây, theo tính toán của các chuyên gia, do tác động của tiếng ồn, đã có tới 1/4 dân số phải dùng thuốc ngủ thường xuyên, mỗi năm ở Áo có gần 7 triệu người sử dụng thuốc ngủ và tiêu thụ hết 40 triệu viên, còn ở Anh năm 1990, bác sĩ phải kê đến 20 triệu đơn thuốc an thần.  Tiếng ồn còn là nguyên nhân làm giảm thính lực của con người, làm tăng các bệnh thần kinh và cao huyết áp đối với những người lớn tuổi. Tác dụng liên tục của tiếng ồn có thể gây ra bệnh loét dạ dày. Khi có tác động của tiếng ồn có thể dẫn tới giảm khả năng tập trung tư tưởng, giảm độ minh mẫn và giảm khả năng làm việc. Khi tiếng ồn đạt tới 50dB về ban đêm, giấc ngủ bị đứt quãng, giấc ngủ sâu bị tổn thất 60%, khi tiếng ồn ban ngày từ 70-80dB sẽ gây mệt mỏi, 90-110dB bắt đầu gây nguy hiểm và 120-140dB có khả năng gây chấn thương.Theo những số liệu thống kê của ngành y tế, số lượng người mắc bệnh tâm thần ở Hà Nội, một căn bệnh có liên quan đến tình trạng ô nhiễm tiếng ồn giao thông đang tăng lên trong những năm gần đây và Hà Nội là một trong những nơi có tỉ lệ người mắc bệnh tâm thần cao nhất nước.

Bài văn số 5

Mỗi người ai cũng muốn làm đẹp cho mình. Những tòa nhà, thành phố hay đất nước cũng vậy. Nhưng vô hình chung, chúng ta đang làm xấu đi hình ảnh của chính những con đường, khu phố và đất nước mình đang ở bằng những rác thải hằng ngày. Rác thải đã trở thành một trong những vẫn đề đáng quan tâm của xã hội hiện nay.Rác thải có thể hiểu đơn giản là những thứ không còn dùng đến nữa được người ta bỏ đi. Ai cũng có thể định nghĩa được về rác nhưng về những cách phân loại rác thì không phải ai cũng biết. Tùy theo những tiêu chí khác nhau sẽ có các loại rác khác nhau: như chia theo nguồn gốc phát sinh có: rác thải rắn sinh hoạt, dịch vụ, rác xây dựng, rác thải dịch vụ và rác thải y tế; chia theo thành phần có rác thải vô cơ và hữu cơ, tái chế. Đây là những cách phân loại phổ biến trong cuộc sống.Thực trạng xử lí rác thải đang là vấn đề đáng quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Theo những số liệu được công bố năm 1900, đã có khoảng 220 triệu người sống ở các thành phố, phát sinh ra ít nhất 300.000 tấn chất thải rắn, bao gồm rác thực phẩm, bao bì và các vật dụng gia đình khác. Một trăm năm sau, hơn 2,9 tỷ người sống ở các thành phố và tạo ra hơn 3 triệu tấn rác thải mỗi ngày. Hiệp hội Chất thải rắn quốc tế (ISWA) báo cáo nêu bật “tình trạng khẩn cấp toàn cầu” đối với số lượng rác thải ra ảnh hưởng đến cuộc sống.Trong tình trạng chung của thế giới, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tình trạng rác thải đáng lo ngại nhất. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới trên 109 quốc gia chỉ ra rằng Việt Nam đứng thứ 17 trên bảng "thành tích" về rác thải nhựa. Không cần những con số ấy ta vẫn có thể nhận thấy qua hình ảnh rác ở Việt Nam. Khi bạn ra đường, rất khó để có thể không nhìn thấy bãi rác nào ở trên đường: những bao rác thải ngay cạnh những khu dân cư đông người, những bệnh viện, công trình; những bãi rác ngay bên chợ và cả những nơi ngập rác chưa được xử lí tại một khu xử lí rác cách đó chẳng bao xa. Ở những khu vui chơi, những lon nước ngọt, những vỏ bánh kẹo vứt la liệt ở mọi nơi, ngay cả gần thùng rác. Rồi ở gần Tháp Rùa, chẳng thấy cụ rùa đâu mà chỉ toàn rác ngập nước. Đó là ở đất liền, ra đến ngoài biển, người ta đã quen với cảnh biển đầy nhựa thay vì cá. Những rác thải sinh hoạt từ người du lịch, dân cư gần đó, những tàu đi đánh bắt cùng với rác thải của những khu công nghiệp xả thằng ra biển mà chưa qua xử lí giờ không đủ để người dân bất ngờ mà chỉ lắc đầu ngán ngẩm. Rác tràn lan ở khắp mọi nơi: từ thành thị đến nông thôn, từ đất liền ra biển. Nó được xử lí hoặc không, nếu được xử lí cũng chỉ là đốt hoặc chôn xuống đất- những cách làm chỉ gia tăng thêm sự ô nhiễm. Có thể thấy người dân hiện nay vẫn chưa nhận thức được việc vứt rác và xử lí rác sao cho hợp lí.

 

Hậu quả của việc vứt rác không đúng chỗ, xử lí rác không theo quy định, không phải tìm đâu xa, mọi người dân đều nhận thức được. Cảnh quan nhà cửa, đường phố hẳn không thể đẹp khi có những bãi rác bẩn thỉu, hôi thối. Nhất là với một đất nước du lịch như Việt Nam, việc giữ gìn mĩ quan lại càng cần thiết. Ta đã thấy rõ những con số về người du lịch giảm đi vì môi trường ô nhiễm ở những vùng biển Vũng Tàu, Sầm Sơn, … Việc rác thải lâu ngày không được xử lí sẽ phát sinh ra nhiều virus và vi khuẩn gây bệnh, dễ gây những bệnh hô hấp cho con người. Thực tế chỉ ra, những nơi không có hệ thống vệ sinh sẽ có nguy cơ mắc bệnh về da, hô hấp cao hơn những nơi còn lại. Và rác thải- một thách thức lớn không kém gì biến đổi khí hậu. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm khi rác không được xử lí đúng: những chất không phân hủy được chôn xuống đất gây ô nhiễm đất, nguồn nước, khi đốt lại gây ra khí độc làm ô nhiễm không khí và hại cho sức khỏe. Biển đã bị biến đổi, sinh vật biển không thể sống bởi hàng tấn rác thải trên mặt nước. Việc thủy, hải sản chết hàng loạt do nguồn nước ô nhiễm đã ảnh hưởng không nhỏ đến những người chăn nuôi, đánh bắt. Việc thu gom và xử lí rác đã chiếm một khoản không nhỏ trong ngân sách địa phương và quốc gia nhưng vẫn không có hiệu quả gì.Không khó để chúng ta đưa ra những nguyên nhân của vấn đề này. Đầu tiên, phải nói về ý thức của người dân. Sự thiếu ý thức của người dân về việc vứt rác đúng nơi quy định, phân loại rác cũng như chưa ý thức được tác hại của sự việc. Mặt khác, họ rất ít khi được phổ biến hay giáo dục về những cách phân loại rác ở các cơ quan hay nơi mình ở. Thụy Điển trở thành một quốc gia sạch nhất thế giới, thậm chí phải nhập khẩu … rác là nhờ ngay trong gia đình, họ cũng có ý thức phân loại rác thành các phần: có thể và không thể tái chế để giúp ích cho quá trình xử lí và tái chế rác. Ở nước ta, vẫn chưa có những nhà máy xử lí và tái chế rác, hình thức xử lí vẫn còn đơn sơ vừa gây hại môi trường, vừa rất lãng phí. Những hoạt động tuyên truyền vẫn chưa phổ biến, chưa tác động trực tiếp tới người dân.Đã đến lúc chúng ta phải giải cứu cho môi trường, cho chính cuộc sống chúng ta! Một vài giây để vứt rác đúng chỗ, một phút để rác đúng phân loại của nó và một lời nhắc nhở dành cho mọi người để vứt rác đúng chỗ. Những thói quen tốt được hình thành từ những điều nhỏ nhặt ấy. Thay vì phải bỏ ra hàng tỉ đồng để xu dọn rác và xử lí ô nhiễm, chính phủ có thể tăng mạnh biện pháp tuyên truyền ý thức và xử phạt với những người, tổ chức thiếu ý thức. Một chiếc thùng rác xinh xắn với dòng chữ “Hãy cho tôi rác” đặt thường xuyên trên hè phố, trong các tòa nhà sẽ gây được sự chú ý. Những việc ấy, không có gì là khó cả.

Leave a Comment