Cảm nhận về tấm lòng người cha trong bài thơ Nói Với Con

Bài văn số 1 Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi …

Bài văn số 1

Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.

Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình", rất cần cù và tươi vui:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,… đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác… đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”.

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin…Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho cọn. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.

Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm cùa cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ … Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

“Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại  trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn – nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao quê hương” thân thiết của mình.

Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha – bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.

Bài văn số 2

Mỗi khi nhắc đến tình cha con, nhắc đến những tấm lòng yêu thương cao cả vô bờ bến của những người cha dành cho con,… tôi lại nghe đâu đó những câu hát:

 “ Cha không mong những lẽ phi thường

Và cha mong cho con biết sống chân thành

Nơi kia chân trời sáng

Dõi bước con đi và cha mong con lớn khôn”

(Cha và Con – Bức Tường)

Thật vậy, dù có như nào đi chăng nữa chúng ta cũng không thể phủ nhận tình cha dành cho con. Bên cạnh tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp thì tình phụ tử cũng vô cùng cao quý và được giới văn nghệ sĩ quan tâm đến. Như nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua tác phẩm: “Chiếc lược ngà”, nhà thơ Y Phương với tác phẩm: “Nói với con”… Nhưng tôi đặc biệt ấn tượng hơn cả bởi bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là sự thể hiện một cách sâu sắc, tình cảm và mang một làn điệu mới về tình cảm cha con từ xưa tới nay.

Có thể nói, tình cha, nghĩa mẹ luôn là đề tài mà thi ca tìm hiểu, khai thác bởi nó mang sự nghĩa tình thiêng liêng, cao quý. Mỗi chúng ta khi sinh ra ai cũng có một gia đình riêng, một tổ ấm mà khi đi xa sẽ nhớ về, khi trở về sẽ không muốn rời xa. Nơi ấy khiến chúng ta cảm thấy an toàn, ấm áp và được chở che. Cũng như vậy, nghệ sĩ là những người khai thác đề tài từ cuộc sống, mang những gì đẹp đẽ của cuộc sống vào thi ca. Y Phương là một người nghệ sĩ như thế. Và đến với “ Nói với con” chúng ta càng được thấm thía hơn. Bài thơ ra đời khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung và nhân dân miền núi nói riêng vô cùng khó khăn, thiếu thốn. Bởi vậy, người cha với niềm hy vọng và niềm mong mỏi lớn lao: mong cho con khôn lớn nên người, luôn yêu quê hương, tự hào về dân tộc mình… Từ đó bài thơ trở thành bài ca thấm thía, quý giá về tình cha con xuyên suốt.

Đến với “Nói với con” của Y Phương trước hết tình cha con được thể hiện ở những lời cha kể cho con nghe về những kỷ niệm hạnh phúc khi con còn nhỏ:                   “Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước chạm tiếng cười”

Ở đây, nhà thơ muốn nói với con chính là cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình cảm gia đình. Tác giả đã giúp ta hình dung sâu sắc hình ảnh một đứa trẻ đang chập chững bước đi . Điều quan trọng là xung quanh em luôn có sự giúp đỡ, dìu dắt của cha mẹ. Nhịp điệu, lời thơ khoan thai, chậm rãi, đều đều. Điệp ngữ “một bước hai bước” tả sự chuyển động cũng là sự lớn lên từng ngày của đứa trẻ trong vòng tay yêu thương của cha mẹ mình. Cả ngôi nhà như rung lên trong: “tiếng nói, tiếng cười” của cha mẹ: mỗi bước con đi, mỗi tiếng con cười đều được cha mẹ đón nhận và chăm chút. Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu chất thơ kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, diễn đạt của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp niềm vui, đầy ắp tiếng nói cười. Có thể nói, tình cha mẹ dành cho con cái thiêng liêng, sâu kín, mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt được hình thành từ những giây phút hạnh phúc bình dị, đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến sợi dây tình cảm gia đình của mỗi con người nên đã tạo được sự đồng cảm, rung động sâu sắc đến độc giả. Điều này còn giúp độc giả hình dung ra phần nào tình cha con tươi đẹp bao la vô ngần.

Bên cạnh đó, tình cha con trong bài thơ còn được thể hiện ở điều cha mong muốn con được lớn lên, trưởng thành với tinh thần dân tộc quật cường và cách sống yêu thương đồng bào, ý chí kiên cường:

“Người đồng mình yêu lắm, con ơi!

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát”

Chúng ta đặc biệt ấn tượng bơi hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên thật tha thiết, trìu mến, càng thể hiện tình cha dành cho con. Người cha muốn nói với con mình những người đồng mình đều là những con người đáng quý, sống lao động cần cù và luôn tươi vui. Các động từ “cài, ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa tạo sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong lao động. Thử hỏi cái “yêu lắm” của “người đồng mình” là gì nếu không phải là cốt cách tài hoa, là tinh thần vui sống? Phải chăng ẩn chứa bên trong cái dáng vẻ thô mộc là một tâm hồn phong phú, lãng mạn biết bao?

Song song cùng với hình ảnh con người là hình ảnh thiên nhiên hiện lên:

“Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

Ở đây, Y Phương chỉ chọn duy một hình ảnh “hoa” để gợi về cảnh quan rừng. Nhưng hoa vốn là một hình ảnh đẹp, một hình ảnh luôn làm xao động lòng người. Hoa trong bài thơ có lẽ là hoa thực bởi như một đặc điểm của rừng núi và khi đặt nó trong mạch cảm xúc của bài thơ hình ảnh này là một tín hiệu thẩm mỹ góp phần diễn đạt điều tác giả muốn khái quát: chính những gì đẹp đẽ của quê hương  đã hun đúc nên tâm hồn cao đẹp của con người . Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Bằng cách nhân hóa “ rừng, con đường” qua điệp từ “cho” người đọc có thể nhận ra lối sống tình nghĩa của “người đồng mình”. Không chỉ vậy, người cha còn nói với với con về kỷ niệm có tính chất khởi đầu cho hạnh phúc gia đình:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Qua đây chúng ta vừa thấy được một lời tâm tình ấm áp vừa thấy được lời dặn dò đầy tin cậy của người cha dành đến con. Phải sâu sắc lắm người cha mới đong đầy tình thương cho con mình như vậy!

Không chỉ tự hào về những con người quê mình cần cù chịu khó, tác giả – người cha còn vô cùng tự hào về sự già ý chí nghị lực của” người đồng mình”, hay lo toan và giàu mơ ước:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương  chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua “thương lắm con ơi”. Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, nhà thơ đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn , lấy cái xa của đất để đo ý chí con người… Đặc biệt các tính từ “cao, xa” được sắp xếp trong sự tăng tiến Y Phương cho thấy khó khăn thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ.

Đặc biệt dù sống trong nghèo khổ gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương cội nguồn:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”

Các hình ảnh ẩn dụ, thành ngữ dân gian đã gợi về cuộc sống lam lũ nghèo đói của người dân quê mình. Những câu thơ dài ngắn cùng những thanh trắc tạo ấn tượng về cuộc sống trắc trở, gian nan đói nghèo của quê hương.Từ “ không chê” cho thấy dù có nghèo nàn thiếu thốn về vật chất nhưng họ không bao giờ thiếu ý chí thiếu sự quyết tâm, vẫn thủy chung và gắn bó với quê hương. Phải chăng chính cuộc sống nhọc nhằn ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương sẽ giúp họ vượt qua tất cả. Bên cạnh đó, “người đồng mình” còn có tình cảm thật trong trẻo, dạt dào như dòng suối, sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.

Hơn tất thảy người cha tự hào với con về ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”

Bằng cách nói và diễn đạt của nhà thơ chúng ta thấy được “người đồng mình” họ có thể mộc mạc, giản dị” thô sơ da thịt” nhưng không bao giờ nhỏ bé về tâm hồn về ý chí về mong ước xây dựng quê hương:

 

“ Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”

Như vậy, người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức lao động đã xây dựng và làm giàu đẹp cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê hương. Còn quê hương chính là điểm tựa tinh thần với phong tục tập quán nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin. Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn, về ý thức bảo vệ cội nguồn, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của” người đồng mình. Có thể nói, nếu không phải là một người giàu tình yêu thương con, yêu gia đình, quê hương tác giả không thể viết nên những lời tâm tình thấm thía đến vậy!!!

Cuối cùng, tình cha con trong bài thơ được thể hiện qua lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha với bao niềm tin, hy vọng:

“ Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”

Hai tiếng “lên đường” cho thấy người con đã lớn khôn và tạm biệt gia đình – quê hương để bước vào trang đời mới. Trong hành trang của con khi lên đường có một thứ quý giá hơn mọi thứ trên đời đó là ý chí nghị lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương. Hai tiếng “nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ bến cha dành cho con. Câu thơ còn hiện ra một cảnh tượng vô cùng xúc động: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người con cúi đầu ngoan ngoãn nghe lời. Thật thử hỏi còn gì cao quý hơn tình cha con!!!

Như vậy, bằng giọng thơ tha thiết, trìu mến nhưng lại trang nghiêm, các hình ảnh thơ cụ thể, có tính khái quát, mộc mạc mà giàu chất thơ đã làm rõ được tình cha con trong bài thơ. “ Nói với con” tựa như một khúc ca nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con suốt cuộc đời và có lẽ sẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ – bài học về niềm tin, ý chí, nghị lực vươn lên…

Có thể nói, nếu trước kia người đọc từng rung độc với “ Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng ở tình cha con trong bom rơi đạn nổ qua cái khốc liệt của kháng chiến mà ánh ngời leeb” hạt ngọc ẩn náu trong tâm hồn” người cha. Thì Y Phương lại để thứ tình cảm ấy nhẹ nhàng mà không kém phần nồng nàn, ấm nóng, là tình cảm tự nó có, không phải chờ bất cứ tác nhân nào. Nhờ vậy, tác tẩm như một bài ca quý báu, sống mãi trong lòng độc giả, không bao giờ phai mờ…

Bài văn số 3

Không mềm mại và dịu dàng như tình mẫu tử, tình cảm của người cha dành cho con cái luôn có sự vững chãi, bền bỉ và trường tồn. Với nhà thơ Y Phương, tình phụ tử thiêng liêng ấy nhiều hơn một lời "cha yêu con", cao hơn cả núi Thái Sơn ngàn năm lừng lững, đó là ước mơ mong con lớn lên mạnh mẽ, vững bước trên đường đời gian nan. Qua bài thơ Nói với con, tác giả đã gửi gắm những xúc cảm vừa nguyên sơ, bình dị lại vừa chan chứa, sâu nặng của người cha với đứa con thơ bé, đồng thời thể hiện sự mong mỏi và kì vọng của đấng sinh thành đối với mầm non tương lai của đất nước.

Bài thơ được viết theo thể thơ tự do giống như lời thủ thỉ, tâm tình. Xuất thân là người dân tộc Tày, câu thơ của Y Phương không chau chuốt, hoa mĩ mà vô cùng chân chất, mộc mạc nhưng không kém phần sâu lắng, cảm động. Từ tình cảm cha con thuần túy, tác giả mở rộng tới tình cảm gia đình và tình yêu dân tộc, yêu tổ quốc. Bởi lẽ, có yêu gia đình, yêu cha mẹ thì mới có nền tảng cho những tình cảm mang tính thời đại, và vì yêu tổ quốc, yêu đồng bào nên người con hãy nhớ lấy công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, đồng thời bộc lộ sự tự hào với dòng máu dân tộc quật cường, bất khuất trung kiên.

Mở đầu bài thơ bằng những vần điệu ngây ngô:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười"

Người con may mắn được sinh ra trong một gia đình đầy đủ, có cha, có mẹ, có tiếng nói, tiếng cười hạnh phúc của tuổi thơ. Từng bước đi chập chững đầu đời của con đều được dìu dắt bởi cha mẹ "chân phải bước tới cha", "chân trái bước tới mẹ", cha mẹ là người nâng bước con đi trên đường đời, ở cạnh con những ngày con thơ bé, mang đến cho con niềm vui tuổi thơ trọn vẹn, tình máu mủ ruột thịt vĩ đại và đặc biệt là công ơn sinh thành của cha mẹ dành cho con. Với nền tảng vững chắc và hạnh phúc như vậy, người cha thủ thỉ với con về cuộc sống thường nhật, về con người quê hương xứ sở:

"Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".

Bài cảm nhận về tình cha con trong bài thơ Nói với con có dàn ý chi tiết

Ở đây, người đọc tưởng tượng giọng thơ giống như lời kể chuyện cổ tích của người cha cho con trước giờ đi ngủ, trầm ấm và say mê. Những hình ảnh đặc trưng của người dân tộc Tày sinh sống tại miền núi như "lờ", "nan hoa", "vách nhà" được Y Phương lồng ghép duyên dáng và khéo léo. Một bức tranh đa sắc màu kể về cuộc sống lao động tươi đẹp của những người dân thật thà, chất phác. đồng mình hăng say lao động, lờ – một dụng cụ để bắt cá được đan tết chắc chắn, tinh xảo "cài nan hoa", nhà tranh vách đất đơn sơ, mộc mạc được lấp đầy bằng những câu hát phóng khoáng của người dân miền núi. Đồng bào dân tộc yêu lao động, làm việc nhưng không quên điểm xuyết cho cuộc sống những sắc màu nghệ thuật tài hoa. Tác giả thể hiện sự yêu quý đối với đồng bào bằng câu nói tình cảm "người đồng mình thương lắm con ơi", "con đường cho những tấm lòng",tiếng lòng dành cho những người anh em ruột rà, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Những tấm lòng thơm thảo như hoa, đùm bọc, che chở lẫn nhau của những người cùng chung dòng máu đỏ da vàng. Trên cái nền cuộc sống chan chứa tiếng cười và niềm vui ấy chính là nơi cha mẹ đã nên duyên vợ chồng, "ngày đẹp nhất trên đời" khi được cùng nhau về chung một mái nhà, cùng làm việc, cùng sinh ra con và dạy dỗ con nên người.

Trong những lời đầu tiên cha dạy con không chỉ nhắc con ghi nhớ về núi rừng nguồn cội mà còn có tình yêu thương với con người. Nhắc đến người đồng mình, người cha mang một niềm tự hào vì những đức tính tốt đẹp, quý báu truyền thống của dân tộc:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn".

"Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục"

Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập và chủ quyền dân tộc, có lẽ vì vậy, người dân đều lớn lên với ý chí quật cường, đứng lên từ thất bại, từ máu lửa đạn bom. "Cao đo nỗi buồn", "xa nuôi chí lớn" chính là để nhắc về những nỗi đau, nỗi mất mát gia đình, người thân, từ đó trở thành động lực phấn đấu không ngừng, rèn luyện ý chí kiên cường, vững chắc. Tuy chỉ là một đất nước nhỏ bé, con người nhỏ bé về tâm vóc, không được trang bị đầy đủ, rèn luyện trong môi trường chuyên nghiệp như các cường quốc, nhưng trí lực thì không hề nhỏ bé. Những dẫn chứng lịch sử oai hùng từ thời vua Hùng, vua Lê cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ngày giải phóng Đất nước, Bắc Nam về cùng một mối năm 1975 gây rúng động toàn nhân loại, chẳng có ai dám nói người Việt Nam nhỏ bé và yếu đuối. Vượt lên những khó khăn cả về điều kiện tự nhiên, "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương", cải tạo đất đai, cải tạo thiên nhiên để làm giàu cho đất nước. Sau bao nhiêu năm bị đô hộ và trải qua thời kì hội nhập, dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn, giữ lại những nét đẹp phong tục truyền thống, đồng thời phát triển cả về kinh tế và văn hóa. Đoạn thơ giàu cảm xúc với âm hưởng bi tráng, khẳng định tinh thần nghĩa khí bất khuất của dân tộc ta, dẫu có đạn bom loạn lạc, dẫu có phải trải qua âm mưu đồng hóa và đô hộ của giặc ngoại xâm vẫn không nao núng, giữ vững tinh thần dân tộc và từng bước phát triển đất nước.

Nối tiếp truyền thống dân tộc, người cha mong con mình lớn lên, nhìn vào những tấm gương các thế hệ đàn anh đi trước để luyện rèn bản thân:

"Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc"

Người cha muốn con hãy lớn lên quật cường, nối tiếp truyền thống quý giá được xây dựng ngàn năm của nhân dân, sống ngay thẳng, có ý chí vươn lên và luôn biết trân trọng những gì mình đang có. "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh", "Sống trong thung không chê thung nghèo đói", đất nước Việt Nam tự do độc lập là thành quả của biết bao mồ hôi nước mắt cha ông đã hi sinh, vì vậy, nhiệm vụ của con là dựng xây, kiến thiết đất nước, đưa Tổ quốc sánh vai với các nước bạn trong khu vực và trên toàn thế giới. Sống trong sạch "như sông như suối", không quản ngại "lên thác xuống ghềnh", "không lo cực nhọc", tích lũy hành trang vững chắc để bước vào đời. Ở đây, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảm của người cha dành cho đứa con bé nhỏ, không phải những lời an ủi ngợi ca êm ái, lời dặn của cha mang tầm vóc lớn lao với cái nhìn xa rộng, mong muốn con nên người và hoàn thiện bản thân. Và cuối cùng, những lời căn dặn của người cha càng trở nên ý nghĩa, sâu sắc:

Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.

Người đọc có chút băn khoăn rằng không biết người cha đang thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ của mình, hay người con đã lớn và chuẩn bị đi xa, người cha muốn gửi gắm những lời căn dặn về lẽ sống với con. Lời nói có âm sắc vừa quyến luyến, vừa rắn rỏi, vừa dặn dò con cũng là vừa răn dạy. "Không bao giờ nhỏ bé", cha mong con không bao giờ từ bỏ giấc mơ, không nản chí khi gặp khó khăn và không sa ngã vào con đường lầm lối. Quả thực, người cha đặt vào con rất nhiều niềm tin và mong con thành công vang dội. Điều vĩ đại nhất người cha muốn con thực hiện chính là sống sao cho thanh khiết, liêm chính, sống cho xứng đáng với sự hi sinh của cha ông, sống đúng với đạo làm người của dân tộc.

Thể thơ tự do bay bổng và linh động, lời thơ chứa chan cảm xúc yêu thương và tự hào, đây giống như lời của chính nhà thơ muốn gửi tới con mình, mong con có một cuộc sống tốt đẹp và xứng đáng với những gì cha mẹ đã cho. Câu từ gần gũi, những hình ảnh miêu tả đặc trưng nếp sống sinh hoạt của người miền núi phía Bắc cũng thể hiện tinh thần tự hào của tác giả đối với đồng bào mình. Người cha gửi tới con những lời dạy vừa nhẹ nhàng, tha thiết mà vừa mang sức nặng tầm vóc lớn lao của cả một dân tộc.

Tình cha con thắm đượm xúc cảm được thể hiện qua cách dặn dò, dạy bảo của người cha với con, Y Phương rất xuất sắc trong việc khắc họa chân dung người nông dân Việt Nam với những đức tính tốt đẹp, ý chí cao cả, kiên trung, qua đó truyền tải tới người đọc những chiêm nghiệm về cuộc sống, con người cũng như mong muốn thế hệ trẻ lớn lên tiếp thu được những tinh hoa dân tộc, lấy đó làm cơ sở phát triển và đưa đất nước lên một tầm cao, một vị trí mới.

Bài văn số 4

Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ " Nói với con" của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.

Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng"

Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.

" Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng"

Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.

" Người đồng mình…

…….

không lo cực nhọc"

Điệp ngữ " người đồng mình" lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi " Yêu lắm, thương lắm, con ơi". Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả." Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh" thì cũng đừng " chê đá ghập ghềnh, chê thung nghèo đói". Lạc quan " như sông, như suối". Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý trí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên dăn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng.

Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.

“ Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"

Đục đá kê cao là hành động thục người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát " kê cao quê hương" đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.

Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.

Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy chân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.

Có lẽ các bạn cũng đã biết xưa nay tình mẫu tử luôn là đề tài phong phú cho thơ ca. Những bài thơ nói về tình cảm cha con thì rất là ít. Riêng bài thơ " Nói với con" của tác giả Y Phương là một trong những tác phẩm rất hiếm hoi đó. Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm êm ấm của gia đình, tình yêu quê hương da diết, ngọt ngào và ngợi ca giá trị truyền thống tình nghĩa, sức sống mạnh mẽ của người dân miền núi.

Cội nguồn sinh dưỡng của con trước hết là cái nôi gia đình con lớn lên trong mái ấm có cha có mẹ trong vòng tay yêu thương. Cha mẹ thấy hạnh phúc sung sướng, từ bước chập chững từ tiếng nói tiếng cười đầu tiên của con. Cách nói mộc mạc, nghệ thuật liệt kê điệp ngữ, gợi ra không khí gia đình đầm ấm tràn ngập yêu thương.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng"

Hơn thế, cái nôi nhỏ bé ấy, còn được đùm bọc bởi cái nôi rộng lớn đó là quê hương. Con lớn lên trưởng thành trong cuộc sống lao động trong thiên nhiên thơ mộng nghĩa tình quê hương. Tác giả vận dụng cách nói của người miền núi để sáng tạo những hình ảnh cụ thể vừa mang tính khái quát cao. Người đồng mình, vùng núi, dân tộc mình yêu lắm con ơi. Đan lờ, ken vách cần cù lao động, cần cù lao động đùm bọc sẻ chia gắn bó với nhau.

" Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng"

Thiên nhiên đẹp đẽ thơ mộng trở qua nghệ thuật nhân hóa. Điều đó khẳng định một quê hương nghĩa tình. Người cha muốn nói với con vẻ đẹp ấy của người đồng mình mà để yêu, gắn bó. Do đó, khi sung sướng ôm con thơ vào lòng nhìn con khôn lớn, suy nghĩ về nghĩa tình làng bận quê nhà người cha nghĩ về kỉ niệm hạnh phúc.

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong ước ở bên con. Vẫn cách diễn đạt mộc mạc độc đáo. Nhà thơ tiếp tục thể hiện, nét đẹp của người đồng mình qua những hình ảnh đặc sắc.

" Người đồng mình…

…….

không lo cực nhọc"

Điệp ngữ " người đồng mình" lặp lại ba lần, đó là cảm xúc trào dâng trong tâm trạng nhà thơ. Biết bao nỗi niềm thiêng liêng da diết với quê hương với con người nơi đây mà thổn thức thành lời gọi " Yêu lắm, thương lắm, con ơi". Đứng trước hoàn cảnh quê hương đất nước lúc bấy giờ điểm tựa tinh thần và củng cố niềm tin duy nhất là cách tin vào sức mạnh truyền thống dân tộc lòng thủy chung với quê hương. Dù hôm nay quê hương, người đồng mình còn nghèo gian nan vất vả." Sống trên đá, trong thung lên thác, xuống ghềnh" thì cũng đừng " chê đá ghập ghềnh, chê thung nghèo đói". Lạc quan " như sông, như suối". Trong ý thơ có nét đặc sắc, nhà thơ lấy cái cao xa của trời đất để đo tầm kích của nỗi buồn và ý trí người đồng mình, tác giả muốn nhắn nhủ khuyên dăn truyền cho con cách nhìn và nghị lực, nỗi buồn dẫu cao to như núi thì ý chí tâm hồn con người, sẽ càng xa càng dài như sông suối, lớn lao như biển rộng. Phải biết chân trọng yêu thương nơi mình sinh ra và lớn lên. Dù gian nan đến đến đâu cũng đừng chê đừng bỏ, đừng làm việc trái lòng mình. Phải biết cần cù lạc quan để vượt qua để sống cho xứng đáng.

Người đồng mình tuy mộc mạc thô sơ nhưng giàu bản lĩnh và lòng tự trọng

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục”

Ý thơ cụ thể mà hàm ý sâu xa, nhà thơ nhắc lại hai lần người đồng mình thô sơ da thịt, mộc mạc. Về lời ăn tiếng nói nhưng chẳng mấy ai nhỏ bé về ý chí nghị lực lòng tự trọng mà ngược lại rất mạnh mẽ, khoáng đạt giàu niềm tin và tinh thần lạc quan, bền bỉ gắn bó với quê hương. Câu thơ độc đáo mang cách nói đặc trưng sâu sắc của người miền núi.

“ Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương"

Đục đá kê cao là hành động thục người miền núi thường đục quá kê cao nhà kê nối đi, từ hình ảnh đó lời thơ chuyển nghĩa khái quát " kê cao quê hương" đó là ý thức bảo vệ và tinh thần xây dựng quê hương ngày càng tiến bộ giàu đẹp hơn là tôn vinh giữ gìn truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương.

Những câu cuối, nhà thơ khẳng định muốn truyền cho con sức mạnh vào truyền thống quê hương, người đồng mình tuy thế nhưng sống cao đẹp, mong con sau này lớn khôn trưởng thành trên cuộc đời phải sống cao thượng để xứng đáng truyền thống tốt đẹp đó. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, số câu số chữ không khuôn chỉnh phù hợp mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt nhịp điệu bay bổng nhẹ nhàng.

Qua những lời tâm sự của cha đối với con. Ta thấy tình cảm cha con thật thân thích, trìu mến, người cha luôn muốn truyền dạy cho con những điều tốt đẹp nhất. Chính vì vậy, mỗi người con như chúng ta hãy chân trọng cố gắng giữ gìn những truyền thống tốt đẹp của ông cha ta.

Bài văn số 5

Ca dao từng có câu: "Công cha như núi Thái Sơn". Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hượng, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.

Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

"Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười"

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những "người đồng mình", rất cần cù và tươi vui:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời".

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,… đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác… đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: "Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng". Cách gọi "người đồng mình" đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của "người đồng mình". Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn".

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như "cao", "xa", "lớn", tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những "người đồng mình". Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

"Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì là phong tục"

Những "người đồng mình" vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những "người đồng mình" mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin…Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. T&ig

Leave a Comment