Có ý kiến cho rằng Lặng lẽ Sa Pa viết về những con người vô danh

Bài văn số 1 Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thàng Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt …

Bài văn số 1

Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thàng Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến "thâm nhập thực tế" như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.

Mùa hè năm 1970 theo lời kể tác giả, ông cùng một người bạn văn quyết định đi nghỉ ở Sa Pa. Vì thế mà nhà văn không vào các cơ quan, đơn vị của địa phương để tìm hiểu thực tế hay tìm gặp những "điển hình tiên tiến" như những lần đi thực tế của các văn nghệ sĩ. Nhưng điều may mắn lại chính là do chỗ không lăm le tìm hiểu thực tế theo lối khá công thức lúc bấy giờ của giới văn nghệ sĩ mà Nguyễn Thành Long đã bắt gặp câu chuyện về người thanh niên công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn một mình giữa lặng lẽ của Sa Pa. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, nhà văn đã nắm lấy chất liệu thực tế ấy, bồi đắp thêm bằng sức tưởng tượng sáng tạo và truyền vào đấy những suy ngẫm, quan niệm về đời sống, về nghệ thuật của một cay bút từng trải làm nên một truyện ngắn hay.

Thành công của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn này, có lẽ trước hết là đã tạo dựng một chất thơ trong sáng, làm nên không khí và sắc điệu riêng của tá phẩm được toát lên từ sự hài hòa giữa phong cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy và mơ màng của Sa Pa với vẻ đẹp trong những suy nghĩ, cảm xúc và công việc của các nhân vật cùng mối quan hệ của họ. Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, xoay quanh tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư vừa mới ra trường với anh thanh niên một mình sống và làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cuộc gặp gỡ chỉ trong chốc lát nhưng đã đủ để nhân vật chính xuất hiện gây được ấn tượng và gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc với nhiều âm vang ở những nhân vật khác trong truyện. Sáng tạo được tình huống ấy và lựa chọn được nhiều điểm nhìn trần thuật từ cái nhìn và tâm trạng người họa sĩ già – Một nghệ sĩ nhiều từng trải và chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, thì có thể nói tác giả đã nắm chắc được sự thành công của đứa con tinh thần của mình.

Truyện có 4 nhân vật: Bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên. Họ thuộc hai thế hệ già và trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng ở họ có rất nhiều điểm rất gần gũi mà trước hết là những nét đẹp trong suy nghĩ, trong thái độ đối với cuộc sống với công việc và với những người khác. Những nhân vật ấy (và ả những nhân vật chỉ được nói đến trong lời kể của người thanh niên) đều không được tác giả đặt tên. Điều này hẳn không phải là không có dụng ý của tác giả: Nhà văn muốn thể hiện họ là những con người bình thường, bình dị trong cuộc gặp gỡ bất ngờ trện hành trình của một chuyến xe khách, như là chúng ta có thể gặp những con người như thế ở nhiều nơi trên đất nước. Những nhân vật trong truyện ít nhiều đều có màu sắc lý tưởng, nhưng họ cũng những hình ảnh những con người mang vẻ đẹp của một thời kì lịch sử.

Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng chói nổi bật nhất của bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của anh, tác giả đã qua lời bác lái xe để giới thiệu về anh: Hai mươi bảy tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất "thèm người" … Cách giới thiệu ấy đã gây hứng thú và chuẩn bị tâm thế cho nhân vật ông họa sĩ trược cuộc gặp gỡ. Khi xe dừng, người thanh niên xuất hiện với dáng vẻ nhanh nhẹn tự nhiên và vóc dáng hơi nhỏ bé dường như không ó gì đặc biệt. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người một mình lặng lẽ của thiên nhiên. Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở những nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao Yên Sơn quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cay mây núi. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất với anh chính là sự cô độc. Cái gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?

Trước hết đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu với công việc. Công việc hằng ngày của anh "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: "Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ nếu cháu cất nó đi, cháu buồn đến chết mất".

Nét đẹp ở nhân vật này không chỉ là ở cách sống có lí tưởng mà còn ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống. Chẳng hạn, về sự cô độc, anh đã nghĩ thế nào?

"Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn lỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, ciệc của cháu gắn liền với việc của bao an hem, đồng chí dưới kia". Còn đây là về nỗi "thèm người" – như cách nói của bác lái xe, anh nghĩ "Con người thì a mà chả "thèm" hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?" Những nỗi "nhớ người" với anh, quyết không thể là nỗi nhớ "phồn hoa đô thị".

Trong cuộc sống lẻ loi của mình, anh còn tìm thấy một nguồn vui, đó là sách, mà anh thấy lúc nào đọc cũng như có người bạn để trò chuyện.

Chính vì tất cả những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù không buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp và chủ động: trồng hoa, trồng rau, nuôi gà, đọc sách ngoài những giờ làm việc có mối giao lưu thân thiết với bác lái xe, những cuộc gặp gỡ với mọi người. Ở người thanh niên ấy còn có mọt nét rất đáng mến nữa là sự cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với người khác. Tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, nhiệt thành, sự săn sóc chu đáo của anh với ông họa sĩ và cô gái mới lần đầu gặp gỡ đã nói lên nét đáng mến ấy ở anh.

Trong truyện, ngoài nhân vật người thanh niên, các nhân vật phụ (bác lái xe, ông họa sĩ già, ô kĩ sư mới ra trường …) không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính, mà còn làm phong phú và sâu hơn cho chủ đề truyện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Tác giả đã hầu như "nhập" vào cái nhìn và tâm trạng của nhân vật này để trần thuật, bao gồm cả quan sat, miêu tả và suy ngẫm, bình luận. Qua cái nhìn của ông họa sĩ, chân dung nhân vật chính được hiện ra rõ nét hơn, đẹp hơn và khơi gợi những suy ngầm về cuộc đời con người và nghệ thuật.

Ngay những phút đầu gặp gỡ với người thanh niên, bằng sự từng trải của một người nghệ sĩ, ông xúc động đến bối rối vì đã "băt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác". Và với ông "người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá: với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ. Và đúng như người họa sĩ đã nghĩ: "Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác". Ví như, từ câu chuyện với người thanh niên, ông họa sĩ đã suy nghĩ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó so với cuộc đời, về con người và mảnh đất Sa Pa.

Còn với cô kĩ sư trẻ mới ra trường thì cuộc gặp gỡ với anh thanh niên cùng với những điều anh kể đã khiến cô bàng hoàng, "cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những con người như anh". Quan trọng hơn nữa, cô hiểu và tin hơn vào con đường mà cô đã lựa chọn.

Như vậy qua cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật khác, hình ảnh người thanh niên như được soi rọi dưới một ánh sáng trong trẻo và rực rỡ khiến nó đẹp hơn, ánh lên nhiều màu sắc hơn. Đó là cái thủ pháp mà người xưa gọi là "vẽ mây để nảy trăng".

Lặng lẽ Sa Pa chưa phải là một truyện ngắn xuất sắc. Có thể ra những chi tiết chưa thật đắt, những chỗ tác giả đã nói thay nhân vật, phát biểu quá lộ liễu về chủ đề của tác phẩm. Nhưng dù sao truyện ngắn này cũng là một thành công đáng ghi nhận của cây bút truyện ngắn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy cũng gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.

Bài văn số 2

A.Einstein đã từng nói rằng: “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý”. Câu nói ấy khiến ta phải trăn trở khôn nguôi về trách nhiệm, bổn phận của bản thân đối với mọi người và với cuộc đời. Đồng thời lời nó ấy cũng gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh anh thanh niên âm thầm cống hiến cho đất nước cho tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa. Có lẽ anh là minh chứng tiêu biểu nhất cho lối sống hi sinh, phục vụ cộng đồng, tổ quốc.

Anh thanh niên hai mươi bảy tuổi, quê ở Lào Cai, công việc của anh là làm vật lí địa cầu và khiêm khí tượng thủy văn. Công việc của anh không ở đâu xa mà ngay ở trong tỉnh đó là làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao hơn 2000m. Người anh bé nhỏ, thấp, nhưng ẩn sau đó là một người hết sức kiên cường, có trách nhiệm trong công việc.

Trước hết, anh thanh niên bị đặt vào các thử thách khắc nghiệt. Anh có nhiệm vụ “đo gió, đo mưa, đo nắng tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hàng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Công việc của anh nhìn tưởng rất đơn giản nhưng đó thực sự là một thử thách, bởi công việc ấy đòi hỏi sự chính xác cao, thức dậy đúng giờ, ngay cả lúc một hai giờ sáng – trời rét căm căm, mưa tuyết thấu da vẫn phải dậy để đo cho đúng giờ ốp.

Là một con người trẻ tuổi, giàu nhiệt huyết và lòng yêu cuộc sống nên khi anh thanh niên phải một mình sống ở nơi heo hút, hẻo lánh cũng là một thử thách rất lớn. Không chỉ sống ở nơi heo hút, thèm người đến nỗi phải lấy khúc cây chắn ngang đường, mà công việc của anh còn có phần đơn điệu, giản đơn. Thử thách lớn nhất với anh là vượt qua được nỗi cô đơn, sự vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi non không có lấy một bóng người. Nhưng bằng lòng nhiệt huyết, bằng tình yêu công việc và tinh thần trách nhiệm anh đã vượt qua mọi thử thách đó.

Những khó khăn kia chỉ như một thứ thuốc thử, để qua đó bộc lộ những phẩm chất và suy nghĩ đẹp đẽ, tích cực của anh thanh niên. Để vượt qua được thử thách mưa gió phải đi đúng giờ ốp thì trong anh có lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc cao. Bản thân anh hiểu rằng công việc của mình tuy nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa rất lớn đối với sản xuất và chiến đấu của đất nước. Bởi vậy, dù làm việc một mình, không ai thúc ép nhưng anh thanh niên vẫ luôn tự giác, tận tâm trong công việc. Trong những năm anh làm việc, anh chưa từng một lần báo sai giờ ốp, dù hôm đó là ngày mưa lạnh cóng, tuyết phủ kín trời anh vẫn không ngần ngại xách chiếc đèn bão đi đo.

Anh yêu công việc của mình, coi nó như một người bạn: “khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Trong lời tâm sự của anh vừa có sự say sưa, vui sướng vừa có cả sự tự hào. Những lời tâm sự ấy rất đỗi giản dị, chất phác và vô cùng hồn nhiên đã phần nào thấy được vẻ đẹp nhân cách của anh. Và anh sẽ càng cảm thấy vui hơn khi thấy công việc của mình giúp ích cho đất nước: với đám mây khô anh phát hiện được đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên cầu Hàm Rồng. Quả thật đối với anh, lao động, làm việc đã trở thành niềm vui và lẽ sống trong cuộc đời. Với mục tiêu và động cơ làm việc đúng đắn, phục vụ cho nhân dân, đất nước, người đọc cũng phải thốt lên rằng “người con trai ấy đáng yêu thật”.

Để vượt qua nỗi cô đơn, anh đã tạo cho mình một cuộc sống nề nếp, văn minh và đầy thơ mộng. Sống một mình trên đỉnh núi cao nhưng anh đã sắp xếp cho bản thân một cuộc sống hết sức ngăn nắp, sạch sẽ: “căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Mọi thứ đều được kê một cách ngăn nắp, còn cuộc sống của anh được thu lại một góc nơi trái gian với chiếc giường đơn con con, một chiếc bàn học nhỏ và một chiếc giá sách. Sống một mình nhưng anh luôn có ý thức làm giàu tri thức của bản thân bằng cách nhờ bác lái xe mua hộ. Đối với anh, sách là người bạn giúp anh vượt qua nỗi cô đơn, buồn tẻ. Sách cũng là người bạn giúp anh thanh lọc tâm hồn và kết nối với thế giới bên ngoài.

Ngoài ra, để cuộc sống thêm phần vui tươi, lãng mạn anh cũng còn trồng những khóm hoa xinh xắn ngay trước nhà, với đủ hương thơm màu sắc. Và một đàn gà vừa phục vụ cuộc sống, vừa làm cho cuộc sống bớt phần tẻ nhạt. Anh thanh niên không chỉ ngày ngày lo nghĩ đến công việc mà con là người tự biết làm cho cuộc sống vật chất và tinh thần của mình thêm phần phong phú, thú vị.

Ngoài ra, ở người thanh niên này ta cũng thấy anh có những phẩm chất rất đáng tự hào, là sự cởi mở, chân thành, yêu quý và quan tâm những người xung quanh, một củ tam thất cho vợ bác lái xe, một giỏ trứng, một bó hoa tươi đã giúp cô kĩ sư thêm phần tự tin vào con đường mình đã chọn. Không chỉ vậy anh còn là người hết sức khiêm tốn, thành thực, anh cho rằng những đóng góp của mình còn hết sức nhỏ bé. Khi bác họa sĩ vẽ chân dung anh sẵn sàng giới thiệu những người anh cho là xứng đáng được vẽ hơn.

Chỉ bằng vài nét phác họa hết sức đơn giản, bằng cuộc trò chuyện ngắn ngủi, nhưng khoảnh khắc ấy cũng đủ để người đọc thấy được vẻ đẹp phẩm chất và tinh thần của anh thanh niên. Anh sống đúng như những gì A.Einstein đã quan niệm, cho đi là mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Anh thanh niên là gương mặt tiêu biểu cho những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Bài văn số 3

Gấp lại truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa” của Nguyễn Thành Long lòng ta cứ xao xuyến vấn vương trước vẻ đẹp của những con người, trước những tình cảm chân thành, nồng hậu trong một cuộc sống đầy tin yêu. Dù được miêu tả ít hay nhiều nhân vật nào của “Lặng lẽ Sa pa” cũng hiện lên với nét cao quý đáng khâm phục. Trong đó anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.

Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình. Trong lời giới thiệu với ông hoạ sĩ già và cô gái, bác lái xe gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”. Đã mấy năm nay anh “sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m bốn bề chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo”. Công việc hàng ngày của anh là“đo gió, đo mưa, đo chấn động mặt đất”rồi ghi chép, gọi vào máy bộ đàm báo về trung tâm. Nhiều đêm anh phải “đối chọi với gió tuyết và lặng im đáng sợ”. Vậy mà anh rất yêu công việc của mình. Anh quan niệm: “khi ta làm việc ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?”Anh hiểu rõ: “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Sống một mình nhưng anh không đơn độc bởi “lúc nào tôi cũng có người để trò chuyện. Nghĩa là có sách ấy mà ”. Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy vẫn ham mê công việc, biết sắp xếp lo toan cuộc sống riêng ngăn nắp, ổn định. Anh nuôi gà, trồng hoa, đọc sách, thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà.

Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi "thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo. Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ.Niềm vui được đón khách dào dạt trong anh, toát lên qua nét mặt, cử chỉ: anh biếu bác lái xe củ tam thất, mừng quýnh đón quyển sách bác mua hộ, hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”, hồn nhiên kể về công việc, đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể quên, việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là: hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái, nước chè cho ông hoạ sĩ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là người con trai tâm lý mà còn là kỉ niệm của một tấm lòng sốt sắng, tận tình đáng quý.

Công việc vất vả, có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của mình bình thường,nhỏ bé so với bao người khác. Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ sĩ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay .Con người khiêm tốn ấy hào hứng giới thiệu cho ông hoạ sĩ những người khác đáng vẽ hơn mình: “Không, không, bác đừng mất công vẽ cháu,để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn. ”Đó là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn, to hơn. Đó là “người cán bộ nghiên cứu sét, 11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”… Dù còn trẻ tuổi,anh thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa pa,thấm thía sự hi sinh lặng thầm của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.

Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực tinh tế, ngôn ngữ đối thoại sinh động Nguyễn Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa pa lặng lẽ. Chưa đầy 30 phút tiếp xúc với anh thanh niên, khiến người hoạ sĩ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ lòng bao cảm mến bâng khuâng …

Với truyện ngắn này, phải chăng nhà văn muốn khẳng định: Cuộc sống của chúng ta được làm nên từ bao phấn đấu, hy sinh lớn lao và thầm lặng? Những con người cần mẫn,nhiệt thành như anh thanh niên ấy, khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng,thật đáng tin yêu.

Bài văn số 4

Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều mang một số phận riêng. Có tác phẩm vừa cát tiếng chào đời đã chết yểu đáng thương. Có tác phẩm gây dư luận xôn xao một thời rồi bị độc giả quên lãng với thời gian. Nhưng cũng có những bài thơ, quyển truyện có một sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc, có một sức hút kì lạ. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long là một truyện ngắn đặc sắc, để lại trong lòng mỗi người đọc chúng ta nhiều rung cảm đẹp đẽ.

Truyện không có những tính cách phi thường, những chiến công vang dội…như ta đã bắt gặp trong nhiều truyện ký viết nhiều về chiến tranh thời chống Mỹ. Nguyễn Thành Long có một lối viết nhẹ nhàng nhiều chất thơ; thiên nhiên hiện hình dưới một màu áo trữ tình ấm áp lòng người đến lạ lung. Đó là những người lao động bình thường, đáng mến, rất vĩ đại.

Bốn con người được nhà văn nói đến, già có, trẻ có, trai có, gái có, ngoài bác lái xe ra, ba nhân vật còn lại là những tri thức xã hội chủ nghĩa: ông họa sĩ, anh cán bộ khoa học và cô kỹ sư mới ra trường. truyện hầu như không có cốt truyện; thế mà cuộc gặp gỡ giữa họ khó phai mờ trong tâm trí của chúng ta

Bác lái xe tốt bụng, vui chuyện như một nhân vật dẫn chuyện nhưng làm ta khó quên. Ông họa sĩ già từng trải, xin an hem cơ quan hoãn “ bữa tiệc ”để đi chuyến đi thực tế “cuối cùng lên tây bắc trước lúc về hưu” Ngòi bút “ như là một quả tim nữa của ông suốt đời ông “ đi” và “ vẽ ”, ông “ Khao khát ” nghệ thuật vì thế mà ông thêm yêu cuộc sống, yêu thêm con người. Nửa giờ ông trò chuyện với thanh niên, và thái độ chân tình của ông đối với cô kỹ sư như tình “ cha con ”, làn ta cảm phục và yêu kính ông, vì ông là một nghệ sĩ chân chính, một trí thức lịch duyệt, một nhân cách đẹp có đời sống nội tâm phong phú.

Anh thanh niên là nhân vật được tác giả dành cho nhiều ưu ái, miêu tả sâu sắc, để lại nhiều ấn tượng đẹp. Về ngoại hình, anh có “tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ”. Anh sống và làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm sương mù lạnh lẽo. Lao động và hiệu quả là thước đo phẩm giá con người. Anh làm công tác khí tượng “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mấy, đo chấn động mặt đất, tham gia vào việc dự báo thòi tiết trước hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Anh lấy số liệu và báo cáo về “nhà” thật chính xác. Những đêm mưa tuyết, lạnh cóng, anh vẫn cắm đèn bão ra vườn lúc một giờ sáng, gian khổ không thể nào nói hết. Anh có công trong việc phát hiện ra một đám mây xốp trên bầu trời Hàm Rồng để không quân ta bắn hạ được nhiều máy bay Mỹ. “Người cô độc nhất thế gian mà như vậy ư?

Giá trị đích thực ở anh là lẽ sống đẹp. Anh rất “thèm” người, nhưng không phải là “nỗi nhớ phồn hoa nơi đô thị”. Anh luôn tự hỏi mình: “mình sinh ra làm gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Một ý thức trách nhiệm làm ta cảm phục. Anh biết lấy sách để “trò chuyện”, để học tập tiến bộ, trau dồi kiến thức. Anh nói về mình hồn nhiên, khiêm tốn. Anh không muốn ông họa sĩ vẽ chân dung mình. Anh ca ngợi ông kỹ sự ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ khoa học lập bản đồ sét, và theo anh, đó là “những con người làm việc là lo nghĩ…..cho đất nước”.

Anh còn có một tấm lòng nhân hậu cao đẹp. Anh gửi biếu vợ bác lái xe vừa ốm dậy củ tam thất. Anh tặng cô kỹ sự lên thăm “nhà” mình một bó hoa rõ to và đẹp. Anh gửi các vị khách một làn trứng để ăn trưa. Toàn là cây nhà lá vườn, nhưng đằng sau món quà ấy là cả một tấm lòng cao cả, đầy tình người. Anh là một trí thức có lối sống ứng xử lịch sự, ấm áp tình yêu thương.

Cô kỹ sư trẻ được tác giả phác họa một vài nét nhưng thật duyên dáng. Cử chỉ cô “ôm bó hoa vào ngực”, cô lắng tai nghe câu chuyện của anh thanh niên rồi tự trầm ngâm lặng lẽ, cô xúc động khi nhìn thấy trang sách anh thanh niên đọc để trên mặt bàn – Mới bước vào đời gặp anh thanh niên tựa như một tấm gương, tự soi để tự hiểu mình, nghĩ về mối tình nhạt nhẽo mà cô đã chối bỏ, “về con đường cô đang đi tới”: cô đẹp như những đóa hoa cô đang cầm trên tay.

Đó là những nhân vật, những tâm hồn trong trẻo, bình dị, hồn hậu và ngập tràn tình thương. Nguyễn Thành Long không tô hồng, mà chỉ thoáng gợi lên “một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra… nhũng nhận xét nho nhỏ như khẽ nhắc người đọc” (Tô Hoài) mà thấm thía vô cùng. Vì đó là sắc màu, ý vị của cuộc sống.

Anh thanh niên đã tâm sự với nhà họa sĩ: “Cháu thấy cuộc đời đẹp quá !”. Quả vậy, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đã giúp ta yêu thêm cuộc đời, yêu thêm con người. và câu thơ của Thanh Hải chợt ngân vang trong lòng, làm ta xúc động về “một mùa xuân nho nhỏ/ lặng lẽ dâng cho đời…”.

Bài văn số 5

Puskin từng viết: “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sang, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long đã để tiếng lòng của mình cất lên, để linh hồn tác phẩm bay lên qua hình tượng nhân vật anh thanh niên.

Tác phẩm có cốt truyện khá đơn giản. Tất cả xoay quanh cuộc gặp gỡ tình cờ giữa các nhân vật: ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên làm việc trên đỉnh núi Yên Sơn. Cuộc trò chuyện ngắn ngủi chỉ có 30’ nhưng đã để lại những dư vị ngọt ngào.

Vẻ đẹp trước nhất mà ta thấy ở anh thanh niên đó là niềm đam mê, trách nhiệm với công việc. Là một người trẻ, chắc hẳn anh cũng mang trong mình nhiều ước mơ và khát vọng được đi đến những khung trời xa, khám phá những mảnh đất mới. Vậy mà, ở độ tuổi thanh xuân mơn mởn ấy, anh đã chọn cho mình công việc khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét quanh năm chỉ có mây mù và sương phủ. Công việc vất vả và cô độc nhưng anh không hề than buồn, than khổ, anh kể về nó một cách hào hứng: Nhiệm vụ của anh là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Anh kể về những máy móc của mình như kể về những người bạn: cái thùng đo mưa, máy nhật quang kí, máy vin, máy đo chấn động vở quả đất. Công việc của anh vô cùng khó khăn, vất vả, lại còn phải chịu thêm cái thời tiết mưa gió khắc nghiệt: mỗi ngày anh phải báo về “nhà” bằng máy bộ đàm bốn lần: bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Gian khổ nhất là lần báo về lúc một giờ sáng, khi ấy có cả mưa tuyết. Nếu là người khác, khi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức, có lẽ sẽ tắt đi ngủ tiếp, nhưng anh thì khác. Anh chui ra khỏi chăn, xách ngọn đèn bão ra vườn. Con người thật quá nhỏ bé trước thiên nhiên vũ trụ, nhưng ý chí của con người thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Bên trong con người anh thanh niên chính là cái lửa của tuổi trẻ, cái lửa của nhiệt huyết đối với công việc, ngọn lửa ấm áp ấy đã xua đi phần nào cái giá lạnh của ngọn núi cô đơn lạnh lẽo kia. Công việc của anh nói chung là dễ, nhưng cần độ chính xác cao. Tất cả đều được anh hoàn thành với tinh thần tự giác, sự cần mẫn, chăm chỉ. Đặc biệt, khó khăn hơn cả thời tiết khắc nghiệt, đó là sự cô đơn vắng vẻ, quanh năm không có một bóng người.

Ta còn thấy ở anh thanh niên ngời sáng lên một tâm hồn thật đẹp. Anh có tấm lòng nhân hậu, quan tâm tới mọi người. Quanh năm chỉ làm bạn với rừng xanh, mấy trắng, bão tuyết, sương rơi, ta hiểu vì sao anh lại “thèm người” đến thế. Vì vậy, anh lại càng trân trọng hơn sợi dây liên hệ giữa mình với mọi người. Biết vợ bác lái xe bị ốm, anh biếu bác củ tam thất, ông họa sĩ và cô kĩ sư lên nhà chơi, anh đãi họ bằng món nước chè pha nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh. Lúc chào tạm biệt, anh không quên tặng hai làn trứng – những món cây nhà lá vườn. Cuộc sống của anh không hề nhàm chán mà rất khoa học, ngăn nắp. Anh tự trồng hoa, nuôi gà, tự học và có sách làm bạn lúc cô đơn. Anh thanh niên còn rất đáng yêu trong suy nghĩ. Anh không còn cô đơn nữa vì đã có công việc làm bạn: “Khi ta việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Công việc chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của anh, là sợi dây gắn kết anh với mọi người. Và công việc ấy càng có ý nghĩa hơn khi anh biết những cống hiến của mình đang góp phần phục vụ cho quê hương, đất nước. Với anh, hạnh phúc chính là làm việc, là cống hiến:

“Nếu là con chim chiếc lá

Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh

Lẽ nào vay mà không trả

Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”

Khi thấy bác họa sĩ định vẽ mình, anh khiêm tốn từ chối và giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn: đó là ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu sét- những con người hi sinh hạnh phúc riêng tư để cống hiến hết mình cho tập thể. Ở anh còn có một tinh thần cầu tiến đáng trân trọng. Anh ngưỡng mộ anh bạn làm việc trên đỉnh Phan-xi-păng, mong muốn làm được nhiều hơn nữa để phục vụ quê hương, đất nước.

Bằng lối kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, truyện hầu như không có cốt truyện, các nhân vật không có tên riêng, tên nhân vật là tên của công việc, tác giả đã khắc họa thành công bức chân dung nhân vật anh thanh niên- một người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng có một tấm lòng sôi nổi và một trái tim ấm áp. Công việc của anh có thể không ai biết đến, không ai nhớ tên, nhưng chính cái lặng thầm ấy lại là vẻ đẹp toát lên từ con người mộc mạc, giản dị. Anh thanh niên cùng với biết bao người có công việc thầm lặng như anh đang hằng ngày, hằng giờ góp phần làm thay đổi đất nước, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người.

Đọc xong tác phẩm, chúng ta tự hỏi: Sa Pa có lặng lẽ không? Sa Pa lặng lẽ trong cảnh vật mơ màng, thơ mộng, nhưng đằng sau cái lặng lẽ ấy lại là một bầu nhiệt huyết, là sự say mê, hết mình và cống hiến. Qua câu chuyện về những mảnh đời lặng lẽ tưởng như thầm lặng, tác giả cũng muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: Hãy sống một cuộc đời có ý nghĩa, không chỉ vì bản thân mà còn vì xã hội, đất nước:

“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta

Mà hãy hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”

Tóm lại, qua nhân vật anh thanh niên ta thấy được vẻ đẹp trong cách sống trong tâm hồn suy nghĩ của anh. Hình tượng anh thanh niên chỉ thoáng qua như một bức chân dung nhưng cũng đủ khiến cho người đọc trân trọng ngưỡng mộ và quý mến anh. Anh là con người tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam những năm đầu miền Bắc nước ta vừa sản xuất vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đó là một thế hệ một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập và noi theo phát huy vẻ đẹp ấy.

Leave a Comment