Dàn ý cảm nhận 13 câu đầu bài thơ vội vàng

Dàn ý số 1 I. Mở bài: giới thiệu đoạn 1 bài thơ Vội Vàng Một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí …


Dàn ý số 1

I. Mở bài: giới thiệu đoạn 1 bài thơ Vội Vàng

Một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lí sâu sắc của nhà thơ Xuân Diệu là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. trong bài thơ tác giả đã thể hiện niềm say mê thiên nhiên, tình yêu cuộc sống tha thiết của tác giả được thể hiện rất rõ qua 13 câu thơ đầu của bài thơ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu 13 câu thơ đầu của bài thơ để hiểu rõ về tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của tác giả.

II. Thân bài: phân tích đoạn 1 bài thơ vội vàng

1. 4 câu thơ đầu:

– 4 câu thơ đầu thể hiện ước muốn táo bạo, khát vọng mãnh liệt của tác giả, tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, tạo hóa

– Thể hiện trái tim yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tha thiết và say mê của tác giả

2. 7 câu tiếp theo:

– Bức tranh thiên nhiên được tác giả thể hiện hết sức sâu sắc

– Bằng tình yêu thiên nhiên của mình tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên hữu tình, có đôi lứa và vô cùng đẹp đẽ

– Tác giả muốn sống trọn trong khoảnh khắc hối hả của thời gian

– Tận hưởng cuộc sống một cách sung sướng và hối hả
III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về đoạn 1 bài thơ Vội vàng
Ví dụ:

Đoạn 1 bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả. Đồng thời thể hiện được một tâm hồn trong sáng và đầy tình cảm của một nhà thơ đầy nhiệt huyết.

Dàn ý số 2

Mở bài phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng

Đôi nét về thi nhân Xuân Diệu cùng bài thơ Vội vàng.

Nêu những nét đặc sắc của tác phẩm để dẫn dắt đến 13 câu đầu của bài thơ.

Thân bài phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng

Vẻ đẹp ở 13 câu đầu thể hiện qua khát khao mãnh liệt của chủ thể trữ tình.

13 câu thơ đầu cho thấy bức tranh thiên nhiên rạo rực tươi mới nơi trần thế.

Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng để thấy sự lo âu giục giã của thi nhân.

Kết bài phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng

Đề cập lại nội dung của tác phẩm, đặc biệt là giá trị của 13 câu đầu bài thơ Vội vàng.

Chỉ ra thông điệp mà nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm, đặc biệt ở 13 câu thơ đầu.

Dàn ý số 3

MỞ BÀI

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

– Cảm nhận khái quát nội dung 13 câu thơ đầu: cho ta thấy ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất.

THÂN BÀI

Luận điểm 1: Khát vọng lạ lùng, mãnh liệt lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”.

– “nắng” mùa xuân : ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui

– “hương” mùa xuân : nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.

→ “tắt nắng”, “buộc gió” là những hành động bất khả thi, đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

– “cho màu đừng nhạt…” : giữ lại những cái đẹp, cái tươi thắm, màu sắc tự nhiên của sự vật

– “cho hương đừng bay…” : níu giữ hương thơm của hoa cỏ mùa xuân.

⇒ Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ cho cuộc đời những gì đẹp nhất, ý thức được sự quý giá, vẻ đẹp của nắng xuân của hương hoa cỏ.

⇒ Cái tôi ngông cuồng, muốn đoạt quyền tạo hóa, thách thức cả vũ trụ, sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và quan niệm về thời gian của Xuân Diệu.

Luận điểm 2: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân

– Thiên nhiên mùa xuân đang trải dài trong khoảng không gian bao la, rộng lớn của đất trời vũ trụ:

+ “Ong, bướm” cùng “mật” ngọt kết hợp với cái màu “xanh rì” tươi mới của đồng nội cỏ

+ Sự mềm mại, uyển chuyển của “cành tơ phơ phất”, thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống

+ Sự rộn rã, mê ly trong “khúc tình si” của cặp “yến anh”.
+ “Ánh sáng chớp hàng mi” – một thứ ánh sáng tuyệt diệu, dịu dàng bao trùm khắp không gian.
+ “Thần vui” gõ cửa -> mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng.
⇒ Bức tranh xuân tươi đẹp nơi thiên đường trần thế không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui.
– Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác:
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”
+ “ngon” : khen, ca ngợi tháng giêng – tháng đầu tiên của mùa xuân
+ “cặp môi gần” : giúp liên tưởng mùa xuân giống như một người thiếu nữ đẹp, rạo rực, cuốn hút khiến người ta mê say.
⇒ Con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. Thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là mặt đất trần thế – thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi trẻ.

Luận điểm 3: Tâm trạng của nhà thơ.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
– Sung sướng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống
– “vội vàng một nửa”: vội vàng, lo lắng, bởi có lẽ hơn ai hết, Xuân Diệu cảm nhận thấy sự chảy trôi của thời gian, sự mỏng manh, ngắn ngủi của kiếp người.
=> Không chờ thời gian trôi qua, không chờ đến mùa hạ mới nhớ đến mùa xuân. Không chờ tuổi trẻ trôi qua mới biết tiếc nuối tuổi thanh xuân của mình. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích
– Sự kết hợp nhuần nhị giữa cảm xúc mong manh

– Sử dụng phép nhân hóa, điệp ngữ, so sánh, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…
– Giọng điệu say mê, sôi nổi
– Ngôn từ và hình ảnh thơ sáng tạo, độc đáo.
KẾT BÀI

– Nêu cảm nhận của em về nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.

Dàn ý số 4

Mở bài
   – Rút trong tập Thơ thơ, tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.
   – Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ và thời gian.
Thân bài
1. Bố cục của bài thơ
   Bài thơ có thể chia làm ba đoạn:

 –     Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu cuộc sống thiết tha và say đắm của tác giả.

 –     Đoạn 2 (câu 14 đến câu 30): Tâm trạng băn khoăn của tác giả về tuổi trẻ của đời người trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.
   –     Đoạn 3 (9 câu cuối): Tâm trạng vội vàng, thái độ sống gấp gáp của tác giả, đồng thời là tuyên ngôn về lẽ sống của Xuân Diệu.
   Bố cục của bài thơ khá rõ ràng, thể hiện mạch lí luận sâu sắc và chặt chẽ. Đó là mạch cảm xúc hối hả, vội vàng trước sự qua đi nhanh chóng của thời gian.

2. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu trong bài thơ

   Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu gắn liền với mùa xuân của thiên nhiên và tuổi trẻ của con người. Đó là cảm nhận của một con người yêu cuộc sông say đắm, thiết tha đến mức phải vội vàng.

Thời gian và mùa xuân

   Cảm nhận về thời ẩmn của Xuân Diệu hết sức tinh tế và đầy triết lí nhân sinh. Xuân Diệu viết bài thơ này khi còn rất trẻ, đó là cái tuổi của sự sống mơn mởn, của việc hưởng thụ sự sống, ít ai có thể nghĩ đến một triết lí sâu xa như Xuân Diệu. Đối với Xuân Diệu, mỗi khắc thời gian trôi qua chính là niềm sợ, lo canh cánh trong lòng. Tác giả sử dụng cú pháp đối lập để diễn tả sự trôi đi của thời gian và tuổi trẻ: đương tới / đương qua; còn non / sẽ già. Sự cảm nhận về thời gian đó đã giúp tác giả rút ra kết luận về sự đồng nhất giữa mùa xuân và tuổi trẻ của chính mình cũng như của tất cả mọi người:
    Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
   Mùa xuân trôi đi thì tuổi trẻ cũng phai tàn, và khi xuân không còn thì đời người cũng hết. Cảm nhận về sự tàn phai của thời gian đã được Xuân Diệu khái quát thành một triết lí nhân sinh. Chắc hẳn phải là người có ham muốn sống tột bậc mới có thể cảm nhận về thời gian một cách cao sâu như vậy. Hẳn là trong Xuân Diệu đã chứa chất bi kịch của nhà thơ lãng mạn trong thân phận một thi nhân mất nước lúc bấy giờ, cũng có thể Xuân Diệu quá yêu cuộc sống nồng nhiệt đến mức sợ thời gian cướp mất tuổi xuân của mình. Có thể gỉải thích bằng nhiều cách khác nhau, tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu bắt nguồn từ chính lòng yêu đời, yêu cuộc sống của sống
Thời gian và tuổi trẻ
   Mùa xuân chính là tuổi trẻ của đời người, của tác giả. Thời gian làm mùa xuân tròi qua cũng chính là cướp đi tuổi trẻ của tác giả. Đó chính là sự lo lắng và xót xa của con người vốn rất yêu cuộc sống, yêu cái tuổi trẻ đầy sức sống của mình. Tâm trạng lo lắng đó đã được tác giả bộc bạch trong những câu thơ đầy triết lí:
    Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
    Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

    Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
    Nếu tuổi trẻ chằng hai lần thắm lại!
   Câu thơ tưởng chừng là lời than vãn nhưng hiện lên trong đó là một quan niệm sâu sắc: cuộc đời làm sao có hai lần tuổi trẻ, và khi thời gian trôi qua thì tuổi trẻ có còn? Một sự so sánh không hề khập khiễng để thấy rằng cuộc đời con người luôn có giới hạn và nhất là cái tuổi trẻ thật đẹp nếu so với mùa xuân của trời đất. Với Xuân Diệu, tuổi trẻ là cái quý nhất của cuộc đời con người, đó là khoảng thời gian đẹp nhất và hạnh phúc nhất. Chính vì vậy tuổi trẻ trôi qua là điều nhà thơ lo lắng nhất và tiếc nuối nhất: Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
   Cảm nhận về thời gian của tác giả làm hiện lên niềm khát sống, khát khao hạnh phúc của một con người vốn có nhiều khát khao. Niềm khát khao ấy thể hiện qua ước muốn níu kéo thời gian để giữ mãi tuổi thanh xuân, giữ mãi mùa xuân của đời người, để con người mãi sống trong tuổi trẻ, trong mùa xuân của cuộc đời.
Soạn bài Vội vàng (Xuân Diệu) hay nhất

Tác giả – tác phẩm bài Vội vàng (Xuân Diệu)

Trắc nghiệm bài Vội vàng (có đáp án)

3. Cảm nhận của tác giả về thiên nhiên và sự sống trong bài thơ
   Nhà thơ giãi bày cái ước muốn tưởng như ngông cuồng của mình bằng một bức tranh tràn đầy sức sống, ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân.

 Bức tranh thiên nhiên có đủ ong, bướm, hoa lá, yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ. Tất cả đang ở thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất. Tuần tháng mật của ong bướm; hoa của đồng nội xanh rì; lá của cành lơ phơ phất; khúc tình si của yến anh; hàng mi chớp ánh bình minh của mặt trời… tất cả hiện hữu có đôi lứa có tình như mời, như gọi, như xoắn xuýt.
   Thi sĩ lãng mạn đã đón chào và chiêm ngưỡng cuộc sống, thiên nhiên bằng cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Cái nhìn vừa ngỡ ngàng, vừa đắm say ngây ngất. Điệp khúc này đây cùng với các liệt kê theo chiều tăng tiến, cách dùng từ láy, từ ghép và những cụm từ tuần tháng mật, khúc tình si hòa vào nhịp thơ gấp gáp, khẩn trương vừa diễn tả cảm giác sung sướng, ngây ngất, vừa có nhịp thơ gấp gáp, vừa có gì như là sự hối thúc, giục giã, khiến cho ai đó dù vô tình cũng không thể làm thơ, không thể quay lưng. Cuộc sống là thiên đường trên mặt đất, hãy tận hưởng và tận hưởng. Đó là lời tác giả muốn nhấn mạnh khi khắc họa bức tranh thiên nhiên trong bài thơ
   Nhà thơ như say khi thốt lê
    Tháng giêng ng
   Câu thơ có ý nghĩa bao quát cả đoạn và lối diễn độc đáo mới lạ. Với Xuân Diệu, cuộc đời đẹp nhất là tuổi trẻ, cũng như một năm đẹp nhất là mùa xuân và mùa xuân đẹp nhất là tháng giêng. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn… Xuân Diệu đã vật chất hóa một khái niệm thời gian bằng cặp môi gần. Xuân Diệu còn truyền cảm giác cho người đọc bằng các từ ngon, gần. Câu thơ của Xuân Diệu không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm và vị ngọt khiến người ta đắm say, ngây ngất.
4. Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn cuối bài thơ

Đoạn cuối trong bài thơ gồm có 9 câu đã diễn tả được khát vọng sống, khát vọng yêu cuồng nhiệt, hối hả của Xuân Diệu. Khát vọng ấy được thể hiện qua những hình ảnh, ngôn từ và nhịp điệu hết sức vội vàng, gấp gáp.
   –     Hình ảnh tươi mới, đầy sức sống như sự sống mơn mởn; mây đưa và gió lượn; cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều; non, nước, cỏ cây; mùi thơm, ánh sáng, hương sắc: xuân nồng.
   –     Ngôn từ với những động từ mạnh và tăng tiến như ôm, riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn.
   –     Nhịp điệu dồn dập, hối hả, sôi nổi và cuồng nhiệt được tạo nên bởi những câu thơ dài ngắn xen kẽ.
5. Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Giá trị nội dung

   Quan niệm sống mới mẻ của tác giả là yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy, trong đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống, biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Từ đó, càng thêm yêu mùa xuân và tuổi trẻ, những gì đẹp nhất của cuộc sống con người. Đó là quan niệm sống rất người mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc.
– Giá trị nghệ thuật
   Những cách tan của thơ mới được thể hiện một cách sáng tạo và táo bạo qua ngòi bút của Xuân Diệu: từ cảm hứng, ý tưởng thơ cho đến hình ảnh, nhịp điệu, ngôn từ… tất cả đều in dấu ấn phong cách Xuân Diệu.
Kết bài
   Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

Dàn ý số 5

Mở bài:

Nếu Tản Đà là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có lẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng bạn đọc khi cho ra đời tập: “Thơ thơ” được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về nội dung và hình thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rạo rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”. Sự rạo rực và băn khoăn ấy được biểu hiện rõ ràng trong 13 câu thơ đầu bài thơ “Vội vàng”.
Thân bài:

Giữa lúc các thi sĩ khác mải mê tìm kiếm nơi nương tựa cho tâm hồn ở những sức mạnh ngoài cuộc đời thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như các nhà thơ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Nhà thơ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, ngôn ngữ thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi ám ảnh nhất trong cuộc đời:
“Ôi đau đớn ! Ôi đau đớn ! Thời gian ăn cuộc đời”
(Bauxtelaire)
Là một hồn thơ rạo rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt mộ

“Thời gian thấm thoắt thoi đưa

Nó đi đi mãi có chờ đợi 
(Tục ngữ)
Vì thế thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của cuộc đời. Người dùng tất cả giác quan tạo hoá ban tặng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại kết hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đón
Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng mạn.
Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ nhựa sống mỡ màng ấy như “ máu căng lên trong lộc của loài nai, như những mầm non háo hức muốn bức ra từ những thân cây”.

Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng” , tươi mới nhất ”mỗi buổi sớm”, để miêu tả khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi ,xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ xúc giác ”tuần tháng mật”, thính giác ”khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.

Tâm hồn của thi nhân rạo rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hòa để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hữu hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rạo rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được dùng rất đắt thể hiện một quan điểm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. Nhà thơ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. Quả thật, Xuân Diệu bên cạnh có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.
Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”,”Của yến anh này đây khúc tình si” và ” Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” mang một quan điểm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được các nhà văn, nhà thơ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên. Bút pháp ước lệ tượng trưng luôn gắn liền với việc miêu tả con người:

“Râu hùm, hàm én, mày ngài”

“Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

(Nguyễn Du)

Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan điểm mới rất gần với Shakespears:

“Con người là kiểu mẫu của muôn loài”

Nhà thơ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hấp dẫn kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa . Qua đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem đến cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.

Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. Thời điểm vạn vật đang căng tràn nhựa sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. Vì thế từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, nhà thơ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ khắc huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng ”này đây”

Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, khuôn khổ thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô bồ vừa say dậy” (Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.
Kết bài:

Tóm lại, 13 câu thơ đầu bài thơ đã thể hiện một một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. Dù rằng thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và các nhà thơ mới nói chung. Vì thế Xuân Diệu xứng đáng là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh).

Leave a Comment