DÀN Ý CẢM NHẬN 2 ĐOẠN BÀI THƠ VỘI VÀNG

Dàn ý số 1 I- Mở bài Giới thiệu đoạn 2 II- Thân bài 1, phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 luận điểm 1: Nhận ra thời gian tuyến tính Xuân đương tới, …

Dàn ý số 1

I- Mở bài

Giới thiệu đoạn 2

II- Thân bài

1, phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 luận điểm 1: Nhận ra thời gian tuyến tính

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

 Trong thơ văn từ cổ chí kim, mùa xuân là mùa gắn liền với tuổi trẻ. Mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc xanh tươi, mùa bắt đầu cho một năm mới, một vòng tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông mới. Song không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được coi là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Trong đề cảm nhận 16 câu giữa bài thơ vội vàng, học sinh nên phân tích rõ sự khác biệt giữa thơ mới của Xuân Diệu và thơ văn trung đại để làm nổi bật lên ý trên.

 Dàn ý chi tiết đề phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 (16 câu tiếp theo)-1

Cảm quan mùa xuân trong thơ Xuân Diệu vừa giống lại vừa khác so với các thi nhân trung đại

 Cụ thể, Xuân Diệu cũng coi mùa xuân là mùa đẹp nhất đời người. Song trong đoạn thơ này, Xuân Diệu đã sử dụng các cặp từ đối lập: đương tới – đương qua, còn non – sẽ già, lòng rộng – lượng trời chật, còn trời đất – chẳng còn tôi. Việc sử dụng liên tiếp các cụm từ đối lập thể hiện quan điểm của Xuân Diệu về thời gian. Khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 cần chỉ rõ những cụm từ đối lập này

Xuân Diệu cho rằng

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Trong thơ văn trung đại những thế kỉ trước, các thi nhân đều cho rằng “xuân đi xuân lại lại”. Xuân Diệu lại không nghĩ như vậy. Ông khẳng định rằng bốn mùa không phải một vòng tuần hoàn. Mà thời gian, là một dòng chảy tuyến tính một đi không trở lại.

 2, phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 luận điểm 2: Nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

 Hình ảnh thiên nhiên mùa xuân trong đoạn thơ tiếp theo có sông, có núi, có con gió xinh, lá biếc, chim rộn ràng. Song sắc thái biểu cảm của đoạn thơ đã đột ngột thay đổi từ rực rỡ, tươi sáng ngập tràn sức sống sang sự u ám, buồn bã. Khi lập dàn ý khổ 2 bài vội vàng, khi bước sang luận điểm 2, học sinh nên viết câu chuyển đoạn để khéo léo giải thích và tiến hành phân tích đoạn thơ tiếp theo

Hình ảnh nhà thơ Xuân Diệu (bên phải)

Cụ thể, có thể sử dụng mẫu câu hỏi tu từ như sau: “Vẫn là những khung cảnh mùa xuân đấy nhưng sao lại nhuốm đầy mùi vị chia lìa?” -> Trong đoạn thơ này, Xuân Diệu đã sử dụng liên tiếp những từ và cụm từ chỉ sự tàn phai. Gồm có các: rớm vị chia phôi, tiễn biệt, bay đi, đứt tiếng. Thêm nữa là những động từ thể hiện cảm xúc trực tiếp như bâng khuâng, than thầm, hờn, sợ -> nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình khi những điều tươi đẹp đang dần lụi tàn mà không thể làm trái ngược lại quy luật của thời gian được.

3, phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 luận điểm 3: Lời giục giã và thái độ sống

 Chính nỗi sợ tàn phai, chia lìa đã đẩy nhân vật trữ tình đưa ra lời giục giã về thái độ sống. Phải khẳng định rằng Xuân Diệu không hề cổ súy cho lối sống gấp gáp hay hưởng thụ. Đó là lời kêu gọi sống trọn vẹn, đam mê từng khoảnh khắc. Nhất là với những bạn trẻ, những người vẫn còn đang trong mùa xuân đời mình. Với đề cảm nhận 16 câu tiếp bài vội vàng này, học sinh cần phải phân tích được tư tưởng xuyên suốt của tác giả trữ tình.

 

Điều mà Xuân Diệu muốn gửi gắm qua bài thơ Vội vàng chính là, hãy cứ sống đầy khao khát, say mê, mãnh liệt trong mùa xuân đời mình

 II- Kết bài

Vội vàng của Xuân Diệu rõ ràng là có sự buồn bã, lụi tàn. Thế nhưng sự lưu luyến với hương sắc mùa xuân ấy không hề ảo tưởng hay đắm chìm con người ta trong mê man đau khổ. Ngược lại, nhân vật trữ tình giục giã sống sao cho không phí hoàn từng phút từng giây. Đó là lòng yêu đời, ham sống, khát khao cống hiến mãnh liệt của Xuân Diệu được gửi gắm qua bài thơ Vội vàng mà khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, học sinh cần phải làm rõ.

Dàn ý số 2

I. Mở bài:

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này.”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.

         Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gian:

                 Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

                Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
                Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mấ
                Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

                Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

II. Thân bài:

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói:

          Tôi từ phút ấy trôi qua phút này

Diều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào.

      Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn:

          Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
                                               Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầu:

                                             Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

                                            Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời
Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con ngừoi bống trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt

       “Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hầu” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

                  Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

                 Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt

                 Con gió xinh thì thào trong lá biếc

                Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

                Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

                Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiêm mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa . Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gian:

          Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như vậy.

       Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

                           Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

                           Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rẩt điển hình, tiêu biêu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội:

                                Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi

                                – Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai   

                               Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn

                               – Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ

                               Em, em ơi tình non sắp già rồi!

“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.

III. Kết bài:

Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.

Dàn ý số 3

I. Mở bài:

Từ “vẻ đẹp” trong câu hỏi mang hàm nghĩa khá rộng. Có thể cảm nhận về rất nhiều vẻ đẹp hàm chứa trong đoận thơ: vẻ đẹp của thiên nhiên, mùa xuân, cuộc đời; vẻ đẹp của tình yêu và tuổi trẻ; vẻ đẹp của cái tôi cá nhân khao khát sống; vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình… Tất cả quyện vào nhau trong một tổ chức ngôn ngữ thi ca hoàn hảo, thể hiện phong cách sáng tạo độc đáo của Xuân Diệu.

II. Thân bài:

Bài viết có thể triển khai các ý chính sau:

–   Đây là đoạn thơ thứ hai của bài thơ Vội vàng, kế tiếp năm câu thơ đầu vốn thể hiện một ước nguyện khác thường: muốn tắt nắng, buộc gió để màu đừng nhạt và hương đừng bay đi… Đoạn thơ từ Của ong bướm này đây tuần tháng mật đến Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân dường như bắt đầu giải đáp những thắc mắc trên: Vì sao tôi muốn thế? – Vì đời quá đẹp mà tuổi trẻ và mùa xuân lại qua mau.
–   Vẻ đẹp của cuộc đời ở đây hiện hình qua gương mặt của thiên nhiên, của mùa xuânỄ Trong con mắt của nhà thơ yêu sống, không có gì khác, cuộc đời cũng chính là mùa xuân, nó đang bày ra trước mắt ta một bữa tiệc thịnh soạn. Tất cả đều tươi ngon, thơm tho, kích thích giác quan của ta hân hoan bừng nở. Bức tranh đời – mùa xuân được vẽ bằng gam màu tươi sáng, trên đó nổi bật lên màu “xanh rì” của đồng nội, dáng nét trẻ trung đầy sinh lực của "cành tơ”, sự bận rộn tíu tít của ong bướm…

–   Tuy nhiên, cuộc đời chỉ thật sự đẹp khi có tình yêu. Bao nhiêu quyến luyến, mê say được thể hiện qua “khúc tình si” của yến anh, qua ánh chớp hàng mi của đôi mắt đẹp mở to nhìn đời với cảm giác ngạc nhiên, hạnh phúc. Trong đôi mắt đam mê sự sống ấy, thời gian là “tuần tháng mật” ngọt ngào, tháng giêng đầy mời gọi như một cặp môi đang hé mở rất gần và mỗi buổi sớm luôn báo hiệu một ngày vui bất tận. Những câu thơ đắm đuối của Xuân Diệu dường như có thể được dùng để minh hoạ cho quan niệm mà thi hào Vích-to Huy-gô từng phát biểu: “Cuộc sống là hoa và tình yêu là mật trong hoa”.

–   Suy cho cùng, bức tranh đời – mùa xuân đầy mĩ lệ và thấm đẫm hương vị tình yêu nói trên chỉ có thể được tưởng tượng, được vẽ ra bởi một cái tôi đầy lạc quan, có cái nhln tích cực về cuộc đời, hiểu rõ giá trị của từng giây phút được sống trên thế gian này với tình yêu và dòng máu thanh xuân của mình. Cái tôi cá nhân, ở phần tươi sáng nhất của nó, quả có một sức hấp dẫn khác thường. Nó có thể đánh thức trong ta khát vọng được thụ hưởng mọi lạc thú mà tự nhiên ban tặng.

–   Những vẻ đẹp được nói tới trên kia của cuộc đời – mùa xuân, của tuổi trẻ – tình yêu, của cái tôi cá nhân lạc quan, khát sống chỉ bộc lộ hết cung bậc của nó nhờ vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca. Ở đây có vẻ đẹp của nhịp điệu – một nhịp điệu trẻ trung, khẩn trương, được tạo nên bởi việc nhà thơ cho tung ra liên tiếp các hình ảnh gây ấn tượng, bởi việc tác giả đã khai thác tối đa hiệu quả của các hình thức điệp: điệp từ (của), điệp ngữ (này đây), điệp cú pháp (của… này đây, hoặc đảo lại: này đây… của). Bên cạnh đó là vẻ đẹp của việc kết hợp hài hoà vừa mang tính tượng trưng, vừa mang tính cảm giác trực tiếp của hình ảnh. Những ong bướm, yến anh, những hoa, những lá một mặt rất ước lệ, mặt khác, lại rất sống động, cụ thể với màu xanh rì và động thái phơ phất tràn đầy cảm giác. Tháng giêng là một khái niệm thời gian, nhưng một khi được kết hợp với từ ngon, với liên hệ so sánh như một cặp môi gần, bỗng trở thành một đối tượng cụ thể, hiện hữu trước mắt ta đầy vẻ mời mọc. Đọc đoạn thơ, ta cũng không thể không chú ý tới cách diễn đạt khá “Tây” nhưng đạt hiệu quả lạ hoá ngôn từ rất đắt, tạo hình được dáng điệu cuống quýt của nhốn vật trữ tình (Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa)…

III. Kết bài:

   Nhìn tổng thể, vẻ đẹp của đoạn thơ là biểu hiện cụ thể vẻ đẹp của một phong cách thơ độc đáo, mới mẻ với cái nhìn nghệ thuật riêng biệt về đời sống, về con người, với những tìm tòi một hình thức diễn tả đầy hình khối và cảm giác, kết hợp được những điểm mạnh của cảm xúc với tư duy phân tích tiếp nhận được từ thơ Pháp.

Dàn ý số 4

I. Mở bài:

– Giới thiệu bài thơ Vội vàng và khái quát nội dung của khổ 2.

II. Thân bài:

* Điều lo sợ:

– Sự chảy trôi của thời gian: xuân tới → xuân qua; xuân non → xuân già

– Lòng người rộng lớn với khát khao → lượng trời chật hẹp → đời người ngắn ngủi → thành xuân hữu hạn.

* Lời thúc giục sống vội:

– Vạn vật nhuốm màu phải tàn, chia ly

– Hãy tận hưởng mọi thứ nhân lúc trời còn tươi, xuân còn thắm

– Hãy sống hết mình khi sức còn trẻ, đam mê còn chưa thoả

III. Kết bài:

– Cảm nghĩ về đoạn thơ.

Dàn ý số 5

I. Mở bài:

Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ "Vội vàng" trích trong tập "Thơ thơ". Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời.

"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian."

II. Thân bài:

Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ thì đến khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu lại thể hiện sự khắc khoải trước những bước đi của thời gian. Dường như, sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi đến mức vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng, cùng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng "xuân đương tới" rồi xuân cũng sẽ "đương qua", xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được thanh xuân, được đời người. Thời gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi thế mà tứng giấy đều phải trân trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa "tới" – "qua"; " già"- "non", đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn cảm nhận được mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời. Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đấy nhưng biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào:

"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời"

Đất trời rộng lớn, vũ trụ bao la, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi nhưng tuổi trẻ đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết. Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia ly cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian:

"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi

Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa."

Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi. Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành ngừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa.

"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm"

Đến cuối cùng, chẳng bao giờ có thể làm được những điều mình ước muốn nếu cứ mãi đợi chờ, mãi hy vọng. Tiếng "ôi" thật nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa như hối tiếc lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành động, hành động ngay bây giờ:

"Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm"

Hãy nhanh nhanh chạy đua với vũ trụ, với thời gian nhân lúc "mùa chưa ngả chiều hôm", nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia ly chưa đến. Câu cầu khiến "Mau đi thôi" như một lời thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong sự chậm chạp, trễ nải và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài.

Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của người viết, tác giả đã mang đến cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học tập. Thơ Xuân Diệu phải chăng chính là "tiếng nói của một tâm hồn yêu đời" như thế. Đọc đoạn thơ, em thấy mình cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật trọn vẹn.

III. Kết bài:

Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ của mùa xuân và tình yêu, ông mang trong mình tình yêu cháy bỏng với cuộc sống, với thiên nhiên, cũng bởi vì quá yêu cuộc sống mà nhà thơ nhạy cảm, ám ảnh hơn với những bước đi của thời gian.

Leave a Comment