Dàn ý số 1
Mở bài
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng Giang
Khái quát nội dung 2 khổ đầu của bài thơ Tràng Giang
Thân bài
Khổ 1: Bức tranh thiên nhiên mênh mang bất tận
Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp: gợn sóng, con thuyền, dòng sông…
Thể hiện nỗi buồn miên man của tác giả, sự trôi nổi phó mặc trên dòng sông hữu tình cùng một tâm trạng chia ly.
Khổ 2: Không gian và thời gian mà tác giả cảm nhận được
Không gian vắng lặng, đìu hiu, tĩnh mịch và được đẩy tới vô tận
Cảnh vật khiến con người trở lên thật nhỏ bé.
Kết bài
Đánh giá về tài năng của tác giả và giá trị của bài thơ.
Dàn ý số 2
I.Mở bài
Giới thiệu tác giả tác phẩm.
Giới thiệu hai khổ thơ đầu.
Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận (1919-2005), là một trong những nhà thơ lớn tiêu biểu của Văn học Việt Nam hiện đại. Thơ Huy Cận hàm xúc, giàu chất suy tưởng và triết lí thâm sâu. Nỗi buồn vạn cổ của thơ Huy Cận được cảm nhận rất rõ thông qua tác phẩm “Tràng giang”. Chưa cần đi hết tác phẩm mà chính hai khổ thơ đầu thôi cũng cho ta đủ cảm giác của hồn thơ Huy Cận rồi.
II.Thân bài
1.Khổ 1
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy giòng.”
a.Thiên nhiên
Mở ra hình ảnh dòng sông mênh mang sóng nước. Một con thuyền nhỏ bé trôi xuôi trên dòng nước và một cành củi khô bồng bềnh giữa sóng nước bao la.
Bức tranh thiên nhiên quen thuộc mang đậm màu sắc cổ điển đường thi với hình ảnh dòng sông, sóng nước, con thuyền.
b.Tâm trạng con người
Từ láy sóng đôi “điệp điệp” và “song song” được đặt trong thế đăng đối trên dưới đã hòa nhập sóng nước vào sóng lòng. Lời thơ mở ra một không gian mênh mang và nỗi buồn trong câu một đến câu ba chuyển thành nỗi sầu theo những con sóng gối lên nhau vừa kết tụ vừa lan tỏa
Nhịp 2–23 trầm buồn tượng như nhịp trôi của dòng sông cũng là nhịp trôi của dòng thời gian. Cảm giác như dòng tràng giang đang trôi chảy giữa đôi bờ một bên vô cùng thời gian, một bên vô tận không gian.
Hình ảnh “con thuyền xuôi mái” gợi cảm giác trôi nổi.
Cặp tiểu đối “thuyền về” – “nước lại” gợi cảm nhận về sự chia lìa. Con thuyền trôi trên mặt nước mà như đang chia bóng với dòng nước, khơi gợi nỗi buồn về thân phận nổi lênh vô định.
Phép đảo ngữ “củi một cành khô” gợi nỗi buồn khô héo. Chi tiết thơ đầy ám ảnh bởi nó là kết quả của quá trình lao động và lựa chọn kỹ lưỡng công phu của nhà thơ.
c.Tiểu kết
Sự đối lập giữa hình ảnh dòng sông bao la rộng lớn với những tạo vật nhỏ bé hữu hạn gợi ra nỗi buồn về sự chìm nổi lưu lạc.
Hình ảnh Tràng Giang không chỉ là dòng sông mà còn là dòng đời và con thuyền của cuộc đời trôi dạt trên mặt nước không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là biểu tượng cho kiếp sống lênh đênh lạc loài trên dòng đời trôi chảy.
2.Khổ 2
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
a.Thiên nhiên
Không gian ba chiều mở ra vô tận và giãn nở cùng từng vạt nắng chiếu xuống lòng sông đẩy bầu trời lên cao thêm, vũ trụ trở nên cao chót vót. “Sông dài, trời rộng” dường như không còn đường biên.
Giữa không gian bao la ý những “cồn cát” nhỏ bé đìu hưu và tiếng chợ chiều vọng lại xơ xác mơ hồ như có như không.
Thiên nhiên hiện ra như một bức tranh vừa hoang sơ vừa cổ kính, và khi đối diện thiên nhiên ấy con người dường như đang đi trên ranh giới của cõi trần thế với cõi hư vô.
b.Tâm trạng con người
“Lơ thơ” đầu câu, “đìu hiu” cuối câu tô đập cảm giác bơ vơ của cái tôi trữ tình. Nhà thơ thấy mình giống như những cồn nhỏ bị vây bọc bởi sự trống vắng quạnh hiu.
“Sâu chót vót” là kết hợp từ độc đáo thể hiện cảm nhận mới mẻ. “Chót vót” là từ láy chỉ chiều cao, ở đây tác giả dùng để chỉ chiều sâu hun hút của cái ngước nhìn lên như muốn xuyên vào lòng vũ trụ để cảm nhận cái thăm thẳm hoang lạnh trong đáy hồn mình cũng như trong lòng nhân thế
“Dài rộng”, “cô liêu” ở câu dưới diễn tả tâm trạng cô quạnh
Âm thanh tiếng chợ chiều gợi sự sống tan tác tàn lụi, hiển hiện giữa không gian 3 chiều mơ hồ hư thực.
c.Tiểu kết
Sự đối lập giữa hữu hạn và vô hạn gợi nỗi buồn hoang vắng, cô liêu của một cái tôi mất mối liên hệ với vũ trụ, không tìm thấy điểm tựa ở cuộc đời.
III.Kết bài
Nêu cảm nhận của bản thân về hai khổ thơ.
Hai khổ đầu của bài thơ “Tràng giang” đã đưa người đọc vào nỗi buồn mênh mang của những phận, những kiếp nhỏ bé giữa bao la thời gian và vô tận của không gian. Với ngôn ngữ thơ đặc sắc, hình ảnh thơ cổ điển mang đậm chất thơ của Huy Cận, hai khổ thơ đã cho ta hiểu hơn về bút pháp của nhà thơ, bút pháp của một nỗi buồn vạn cổ.
Dàn ý số 3
Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang
Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhanh đề của bài thơ:
Tác giả Huy Cận (1919 – 2005)
– Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh.
– Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ông học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.
– Ông có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua tập thơ “Lửa thiêng”.
Bài thơ Tràng Giang – tác giả Huy Cận
Thông tin về nhà thơ Huy Cận.
– Trước Cách mạng, ông được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài.
– Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống.
Hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang
Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hưng sáng tác bài thơ này.
Ý nghĩa nhanh đề và lời đề tựa bài thơ Tràng Giang
– Nhan đề: Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
– Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người.
Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang
Về bố cục, nội dung bài Tràng Giang được chia thành 4 phần:
Phần 1 (khổ thơ 1): Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.
Phần 2 (khổ 2): Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều.
Phần 3 (khổ 3): Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.
Phần 4 (khổ 4): Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.
Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, các từ láy đặc sắc, đối ý, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ, Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.
Phân tích bài thơ Tràng Giang – Huy Cận
Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.
* Hai câu thơ đầu:
– Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề “tràng giang” với cách điệp vần “ang”: gợi sự ngân vọng vang xa cổ kính.
– Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi.
– Hình ảnh:
+ “Sóng”: gợi lên từng đợt như những nỗi buồn chồng chéo trong tâm trạng.
+ “Thuyền” và “nước”: vốn luôn giao hòa nhưng trong câu thơ này lại lạc điệu, li cách.
* Câu thơ thứ ba:
– Hình ảnh: “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối “thuyền về” >< “nước lại”.
– Từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời.
* Câu thơ cuối:
– Hình ảnh độc đáo “củi một cành khô lạc mấy dòng: sự trôi nổi, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng là của số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả.
– Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt cho câu thơ.
Soạn khổ 2 bài Tràng Giang
“Lơ thơ cồn nhỏ gió điều hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Huy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tràng giang mở rộng ra đến bến bờ, trời đất. Từ không gian ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.
* Hai câu thơ đầu:
– Từ ngữ:
+ Khổ thơ bắt đầu bằng một câu thơ với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu”: gợi tả nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo.
+ Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp với âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu:
Âm thanh rất nhỏ, rất khẽ của phiên chợ chiều đã vãn vọng về từ một nơi xa không xác định.
Không có âm thanh tiếng chợ chiều.
Dù là cách nào thì khung cảnh tràng giang đều hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt.
– Hình ảnh: được mở rộng ra so với khổ thơ trước. Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ có mênh mông sông nước mà còn có cồn nhỏ, có gió thổi, có xóm làng, có nắng chiều, có trời cao… nhưng vẫn toát lên vẻ hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như những nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên. Nó càng tô đậm thêm nỗi cơ đơn của con người.
* Hai câu thơ cuối:
– Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” đã vẽ nên một không gian rộng mênh mông, vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích.
– Những tính từ gợi cảm xúc: “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là sáng tạo đặc biệt của Huy Cận.
Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, cao chót vót, rộng mênh mông.
Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng Giang
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đồ ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Nhà thơ lại nhìn lại về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.
Phân tích khổ 3 bài thơ Tràng Giang.
Thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát của nhà thơ bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.
* Hình ảnh:
– Hình ảnh thực “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận.
– Hình ảnh mong ước: con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vũ trụ. Đó là một chuyến đồ ngang qua lại, là một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị.
* Từ ngữ:
Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rợn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Lập dàn ý khổ thơ cuối bài Tràng Giang
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhiều nhà thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
* Hai câu thơ đầu:
– Hình ảnh: thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “búi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ, sà xuống trùm lên mọi cảnh vật.
– Từ ngữ:
+ “đùn”: khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
+ “nghiêng”: bóng hoàng hôn dường như sa suống quá nhanh khiến cho cánh chim phải nghiêng lệch để bay về phía trời xa xăm.
* Hai câu thơ cuối:
– Từ láy “dợn dợn” là một sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.
Bài thơ Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Huy Cận, được viết năm 1939 lấy cảm xúc từ không gian mênh mang của sông Hồng, bài thơ được in trong tập thơ “Lửa thiêng”.
Dàn ý số 4
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm Tràng giang
– Khổ thơ đầu mở ra nỗi sầu nhân thế của tác giả với không gian thiên nhiên bất tận.
II. Thân bài:
* Hoàn cảnh sáng tác bài thơ
– Khi tác giả đứng trước sông Hồng vào một chiều thu năm 1939, khi tròn hai mươi tuổi, ở bờ Nam bến Chèm, cùng nỗi sầu vô tận trong tâm hồn.
* Giá trị nội dung
– Hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ của quê hương, ẩn sau nỗi buồn là tình yêu quê hương tha thiết.
– Hiện lên đối lập giữa không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ mênh mông là cái tôi nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng.
– Nỗi buồn, cô đơn, sầu muộn vô cùng của con người trước thiên nhiên bao la.
=> Tác giả thể hiện niềm khao khát được hòa nhập với con người, với thiên nhiên, kín đáo đặt trong đó tình yêu đất nước (khi con người sống giữa quê hương mà cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cô đơn trên chính quê hương ấy => Cảm xúc của người dân mất nước).
* Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ được kết hợp giữa lối thơ cổ điển và hiện đại, thể thơ thất ngôn, chất thơ Đường nhưng được kết hợp với cái tôi của thơ mới.
– Hình ảnh được gợi lên trong thơ vô cùng trong sáng, giàu xúc cảm.
– Chất thơ Đường thấm đượm từ nhan đề, thể thơ, thi tứ (sự lẻ loi của con người trước tạo vật, vũ trụ to lớn), các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, song đối.
* Phân tích khổ 1:
– Tác giả đứng trên bờ sông nhìn xuống dòng nước mênh mông của sông Hồng, tạo nên những hình ảnh vừa chân thực lại vô cùng giàu sức gợi.
+ Một dòng sông lững lờ trôi với những cơn sóng gợn, với chiếc thuyền nhỏ và một cành củi khô giữa dòng.
+ Hình ảnh "sóng gợn": gợi lên hình ảnh sống nước mênh mang, những con sóng gợn lăn tăn vỗ lên mặt sông => Nỗi buồn chập chùng trong lòng người thi sĩ.
+ Hai từ "tràng giang": là từ Hán Việt, với hai âm "ang" tạo nên tiếng vọng cho câu thơ, vừa gợi lên một dòng sông dài rộng và cổ kính.
+ Từ láy "điệp điệp": Những con sóng cứ nối nhau liên tiếp =>Nỗi buồn miên man, không nguôi trong lòng tác giả, một nỗi buồn cụ thể.
– Một con thuyền xuất hiện giữa dòng nước mênh mông
+ Con thuyền không đảo chèo, ngược sóng mà buông thõng mái chèo, "xuôi mái", thụ động, mặc dòng nước đưa đẩy.
=> Con thuyền xuất hiện thật nhỏ bé giữa dòng sông, lênh đênh và vô định.
=> Nghệ thuật đối "điệp điệp –song song": gợi lên nỗi buồn nhân thế đang lan trong tâm hồn Huy Cận, chính ông cũng như con thuyền kia, bơ vơ giữa sóng nước cuộc đời, buông xuôi, mặc cho dòng đời xô đẩy.
– Hình ảnh "Thuyền về … ngả":
+ Hình ảnh thường xuất hiện trong thơ văn
+ Thuyền và nước tưởng gặp nhau, hứa hẹn cùng nhau nhưng ở đây, sự gặp gỡ chỉ là phút chốc, để rồi lại chia lìa đôi ngả.
+ Hình ảnh "thuyền về nước lại": gợi lên cảnh chia li, xa cách.
+ "Sầu trăm ngả": Mối sầu muôn dặm, to lớn, rộng khắp.
– Hình ảnh "Củi …mấy dòng":
+ Đầu tiên là nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước.
+ Nhấn mạnh sự nhỏ bé, đơn độc của một cành củi nhỏ giữa sóng nước bao la.
+ "Cành củi khô": Gợi lên sự khô héo, không còn sức sống lại ít ỏi
+ "Mấy dòng": Vừa gợi lên cảnh sông nước mênh mông, vừa gợi lên hình ảnh của dòng đời, vô số bước đường đi nhưng không biết chọn hướng nào mà bước tới.
=>Một cành củi khô lạc lõng giữa dòng nước mênh mông => Con người bơ vơ giữa cuộc đời, mang trong mình nỗi sầu muộn không nguôi.
– Tác giả đã sử dụng hiệu quả những phép đối trong khổ thơ (buồn điệp điệp – nước song song, sầu trăm ngả- lạc mấy dòng) cùng các từ láy => tạo nên sự tương phản lớn giữa cá thể lẻ loi, cô đơn với vũ trụ mênh mông.
* Kết luận chung:
– Khổ thơ gợi lên nỗi buồn sâu lắng của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, gợi lên sự chia ly, xa cách giữa những con người, không có sự giao hoa, đặc biệt tác giả muốn nhận mạnh nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, vô định trước cuộc đời.
– Nghệ thuật: Huy Cận đặc biệt sử dụng thành công các hình ảnh gợi tả, cách gieo vần nhịp nhàng.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại ý nghĩa của khổ thơ.
Dàn ý số 5
I. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả:
+ Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới.
+ Thơ Huy Cận mang phong cách suy tư, triết lý đặc biệt là những sáng tác trước Cách Mạng
tháng 8.
+ Điều đó thể hiện rõ qua tập thơ “Lửa thiêng”.
– Giới thiệu tác phẩm
+ “Tràng giang” in trong tập “Lửa Thiêng”
+ Đây là tác phẩm đã đưa tên tuổi Huy Cận lên đỉnh cao trong văn học Việt Nam hiện đại
+ Tác phẩm được sáng tác khi nhà thơ lên Hà Nội học. Mỗi chiều nhớ nhà, ông thường ra bến
Chèm, đứng trước sông Hồng để thả hồn vào cảnh sông nước bao la.
– Dẫn dắt vào luận đề: Điều đó thể hiện rõ nét qua hai khổ thơ đầu của bài.
– Đưa thơ (đưa tắt)
– Chuyển ý: Sau đây chúng ta cùng phân tích.
II. Thân bài:
1. Dẫn dắt: Phân tích nhan đề + câu thơ đề từ
– Ngay từ nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:
+ “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.
+ Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm.
+ Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường Giang”, hai âm "ang" đi liền
nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh
mông, bát ngát.
– Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc.
Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm
trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó
còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ
loi, tội nghiệp.
Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la
trong một buổi chiều đầy tâm sự.
2. Phân tích
a. Khổ 1: Bài thơ mở đầu bằng một khổ thơ mang vẻ đẹp thiên nhiên, đậm chất cổ
thi. Cảnh vật thiên nhiên ấy lại được cảm nhận qua tâm hồn “sầu vạn kỉ” của nhà
thơ:
“ Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
– Nhà thơ sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường như “thuyền, nước, sóng, …”. Đó là một
bức tranh đẹp như bức tranh thủy mặc nhưng buồn đến tê tái.
– “Sóng gợn” chỉ nhẹ thôi nhưng cứ “điệp điệp” kéo dài không dứt, đó chính là những cơn sóng lòng
cứ dâng lên khiến cho tác giả buồn bã không nguôi. Huy Cận đã sử dụng 2 từ láy liên tiếp nhau
trong một câu thơ “tràng giang”, “điệp điệp”. Cách dùng từ thật mới lạ, độc đáo, không phải là
www.cuasovanhoc.com FB Group: Học tốt Văn Người soạn: Lê Minh Thiện
buồn bã, da diết mà là buồn “điệp điệp”, nghĩa là một nỗi buồn tuy không mãnh liệt nhưng nó cứ
liên tục, không ngừng.
Liên hệ: Đại thi hào Nguyễn Du đã từng nói:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
(Truyện Kiều)
– Cảnh vật ảm đạm như thế thì thử hỏi tâm trạng của con người làm sao mà vuiđược?
Liên hệ: Trong bài “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh:
“Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mơi biết
Thuyền đi đâu về đâu”
– Trong thơ Xuân Quỳnh, thuyền và nước thấy hiểu nhau, đi đôi như hình với bóng thì ở bài “Tràng
giang” của Huy Cận ngược lại. Ở câu thơ thứ 2, hình ảnh “thuyền”, “nước” còn sóng đôi, “song
song” nhưng đến câu 3 thì ta thấy hai sự vật này đã chia ly tan tác “thuyền về nước lại sầu trăm
ngả”. Nghệ thuật đối giữa “Thuyền về” và “nước lại” nhằm nhấn mạnh sự chia ly, xa cách, thể
hiện sự nuối tiếc trong lòng tác giả.
– Nếu nỗi buồn ở câu 1 còn mơ hồ chưa định hình rõ ràng thì đến đây nó đã trở thành nỗi sầu lan tỏa
khắp không gian. Từ trước đến giờ ta thấy, “thuyền” và “nước” là hai hình ảnh không thể tách rời
nhau vậy mà Huy Cận lại chia rẽ chúng ra. Điều này chứng tỏ ông đã quá đau buồn, ông lúc nào
cũng mang trong mình một nỗi u hoài, một nỗi chia ly, chia xa.
– Gây ấn tượng nhất trong khổ thơ là hình ảnh ẩn dụ “củi một cành khô” từ thượng nguồn trôi dạt
trên dòng sông, đang phải chọn lựa sẽ xuôi theo dòng nước nào khiến tác giả liên tưởng đến cuộc
đời mình. Ông cũng như bao người dân mất nước mang thân phận bọt bèo giữa cuộc đời rộng lớn.
Hình ảnh cành củi kia còn tượng trưng cho kiếp người nhỏ bé, những văn nghệ sĩ đang băn khoăn,
ngơ ngác, lạc lõng trước nhiều trường phái văn học, ngã rẽ của cuộc đời. Câu thơ nhiều tầng ý
nghĩa, khiến cho ý thơ sâu sắc. Bằng bút pháp nghệ thuật đảo ngữ: đẩy từ “củi” lên đầu câu, tác giả
nhấn mạnh thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người trong cuộc sống.
Đến đây, ta nhận ra nỗi buồn của Huy Cận là nỗi buồn của một kiếp người bởi cuộc đời vốn
có nhiều thay đổi, bất ngờ, không báo trước mà con người thì rất nhỏ nhoi và cô độc, lẻ loi.
Khổ thơ đầu gợi một cảm giác bâng khuâng, lo lắng , lạc lõng, chơi vơi của tác giả giữa
dòng đời vô định, không biết sẽ đi đâu về đâu.
b. Khổ 2: Nỗi lòng nhà thơ được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của
không gian lạnh lẽo:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
– Lúc này, góc nhìn của nhân vật trữ tình đã thay đổi, bao quát hơn, rộng hơn khi từ cảnh sông
Hồng chuyển sang không gian bao la của trời đất, bến bờ. Đó là một không gian vắng lặng, yên
tĩnh: Có cảnh vật (cồn, gió, làng, chợ…) nhưng cảnh vật lại quá ít ỏi, nhỏ nhoi (cồn nhỏ, làng xa,
chợ vãn… )
– Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng tràng
giang. Trên những cồn đất nhỏ đó, mọc lên những cây lau, sậy, khi gió thổi qua thì âm thanh phát
ra nghe man mác, nghe “đìu hiu” não ruột.
www.cuasovanhoc.com FB Group: Học tốt Văn Người soạn: Lê Minh Thiện
– Có âm thanh nhưng âm thanh ấy lại phát ra từ ngôi “chợ chiều” đã “vãn” mà làng lại xa nên không
đủ sức làm cho cảnh vật sinh động, có hồn.
Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái gợi lên âm thanh xa xôi, không rõ rệt. “Đâu tiếng
làng xa” có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về
một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một
sự phủ định hoàn toàn,vì chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái
tịch liêu của thiên nhiên. Tất cả vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
– Đến hai câu thơ tiếp theo thì không gian được mở ra bát ngát:
“Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.”
Sông dài trời rộng bến cô liêu
– Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời
lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”. Vũ trụ thì bao
la, vô tận, còn con người thì quá nhỏ bé, cô độc lẻ loi.
– Nhà thơ nhìn lên bầu trời và thấy bầu trời “sâu chót vót”. Cách dùng từ thật độc đáo vì nhà thơ
không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu”. “Cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời. Còn “sâu” không chỉ
diễn tả được độ cao vật lý mà còn diễn tả được sự rợn ngợp trước không gian ấy. Đó chính là sự
rợn ngợp trong tâm hồn của thi nhân trước cái vô cùng của vũ trụ. Cách sử dụng từ hết sức mới lạ
bởi tác giả đã lồng chiều cao vào chiều sâu; ông đang ngắm cảnh bầu trời cao “chót vót” dưới mặt
nước “sâu” thăm thẳm. Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi
đến tội nghiệp.
– Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra
một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ
thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng. Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen
thuộc trong Đường thi như: „sông, trời, nắng…”; cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường
với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột
cùng. Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật.
3. Đánh giá
a. Nội dung:
– Hai khổ thơ cho ta thấy được tâm trạng buồn bã, băn khoăn, ngơ ngác trước những ngã rẽ của cuộc
đời. Thi nhân cảm nhận rõ sự nhỏ bé, lẻ loi, cô độc của một kiếp người giữa dòng đời rộng lớn.
Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là
giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX.
b. Nghệ thuật
– Bài thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại:
+ Cổ điển ở thể thơ, cách đặt nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”.
+ Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, đặc biệt là hình ảnh “cành củi khô” gây ấn tượng, cách
dùng từ mới lạ “sâu chót vót”.
III. Kết bài
– Đánh giá tác phẩm: “Tràng giang” quả là một tuyệt phẩm trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Tác phẩm không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ của Huy Cận mà còn đại diện cho khuynh
hướng thơ văn lãng mạn gian đoạn 1930 – 1945.