Dàn ý Cảm nhận bài Chiều tối của Hồ Chí Minh

Dàn ý số 1 I, Mở bài:giới thiệu tác giả, tác phẩm, nội dung phân tích 1, Tác giả:  – Là người anh hùng dân tộc, người lãnh tụ thiên tài, người chiến sĩ cộng …

Dàn ý số 1

I, Mở bài:giới thiệu tác giả, tác phẩm, nội dung phân tích

1, Tác giả:

 – Là người anh hùng dân tộc, người lãnh tụ thiên tài, người chiến sĩ cộng sản mẫu mực, một nhà văn, nhà thơ lớn

 – Viết văn, làm thơ là để phục vụ sự nghiệp Cách Mạng

 – Sáng tác của Người bao giờ cũng có mục tiêu cụ thể, đồng thời rất chú ý đến đối tượng tiếp nhận

2, Tác phẩm: là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Bác

3, Nội dung phân tích: vẻ đẹp của một tâm hồn lớn, cất cánh giữa những thử thách khắc nghiệt của thời đại qua nhưng vần thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại

II Thân bài:

1, Khái quát:

-Xuất xứ: là bài số 31 trong tập “Nhật kí trong tù”

-Cảm hứng: trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đi Thiên Bảovào cuối thu 1942

2, Phân tích:

a, 2 câu đầu: bức tranh thiên nhiên chiều tối trên đường chuyển lao (trích thơ)

* Thời gian và hoàn cảnh:

 – Thời gian: chiều tối

 – Hoàn cảnh: chặng cuối của một ngày chuyển lao đày ải, cực khổ

 * Bức tranh thiên nhiên:

 – Khung cảnh thiên nhiên, núi rừng lúc chiều tối với một cánh chim nhỏ, mỏi mệt tìm chốn ngủ và một chòm mây lẻ loi bay chầm chậm giữa tầng không

 – Bút pháp chấm phá: nhà thơ không tả mà chỉ phác họa vài nét

 – Hình ảnh thơ:

   + “Chim mỏi”

   + “Chòm mây” cô độc

Tả ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Đó là sự mệt mỏi, cô đơn của người tù khi kết thúc một chặng đường đày ải

 – Hình ảnh thơ” quen thuộc, gần gũi, chân thực

 – Nghệ thuật đối: làm nổi bật cái mênh mông của vũ trụ và cái nhỏ nhoi của cảnh vật

=> Hồ Chí Minh đã phác họa nên một bức tranh vừa cổ điển nhưng rất bình dị, gần gũi. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Bác

 – Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, yêu thiên nhiên tha thiết

 – Nghị lực phi thường, bản lĩnh thép của người chiến sĩ Cộng Sản

b,2 Câu cuối: bức tranh đời sống con người ( trích thơ)

 – Điểm nhìn: hướng về mặt đất, hướng về đời sống con người

* Bức tranh đời sống

 – Hình ảnh trung tâm: “sơn thôn thiếu nữ”

   + Hình ảnh bình dị, trẻ trung, khỏe khoắn của người lao động

   + Hình  ảnh con người không bị nhỏ bé, mờ lấp trong không gian của núi rừng mà trở thành tâm điểm của bức tranh thơ

 – Điệp ngữ chuyển tiếp theo lối vắt dòng: “Ma bao túc” _ “Bao túc ma hoàn”

   + Tạo nhịp điệu tuần hoàn

   + Gợi vòng xoay của chiếc cối xay ngô

   + Gợi vòng thời gian trôi chảy

 – Hình ảnh “lò than rực hồng”

   + Nghệ thuật lấy sáng tả tối, lấy không gian để tả thời gian

   + CHữ “hồng” là nhãn tự của bài thơ

   + “Hồng” là hơi ấm, là ánh sáng, niềm vui và sự tin yêu

Mạch tơ có sự vận động: từ tối đến sáng, từ buồn đến vui

Qua bức tranh đời sống con người, Hồ Chí Minh bộc lộ một tâm hồn nghệ sĩ hài hòa trong cốt cách người chiến sĩ. Tư tưởng của nhà thơ thể hiện cái nhìn lạc quan, hướng tới tương lai

3, Đánh giá

 a, Nghệ thuật:

– Bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển ờ đề tài, thể thơ tứ tuyệt

– Bút pháp chấm phá, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được sử dụng tinh tế

– Điệp ngữ chuyển tiếp, cách dùng từ linh hoạt, tinh tế

 b, Nội dung:

– Mạch thơ vận động hướng về sự sống, ánh sáng

– Thể hiện một cái tôi thi sĩ, chiến sĩ bản lĩnh, vững vàng

III, Kết bài: khái quát vấn đề, nêu cảm nghĩ bản thân

Dàn ý số 2

1. Dàn ý phân tích bài thơ chiều tối

1. Mở bài

Khái quát về tác giả Hồ Chí Minh

Giới thiệu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm

2. Thân bài

Phân tích kĩ hơn hoàn cảnh sáng tác bài thơ

Trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo suốt một ngày dài với xiềng xích đi bộ đường rừng đến tận chiều tối mà chưa được nghỉ chân

Chiều tối sự chuyển giao giữa ngày với đêm và cảm xúc của Bác – một con người xa quê

Khung cảnh chiều tối nơi núi rừng

Bút pháp chấm phá

Bức tranh chiều đầy ấn tượng

Phong vị cổ điển của thơ đường thơ tống và sự sáng tạo riêng trong nghệ thuật của Bác

=> Vẻ đẹp tâm hồn Người

Bác xuất hiện như một con người đời thường hoà mình với cảnh vật thiên nhiên

Bao cảm xúc, bao khát khao chợt tràn về trong khung cảnh hùng vĩ ấy

Ý chí nghị lực phi thường của Bác

Bức tranh con người trong đời sống sinh hoạt

Hình ảnh con người trở thành trung tâm của bức tranh chiều

Cuộc sống lao khổ của người lao động

=> Tình yêu thương lòng nhân ái của Bác đã vượt qua biên giới bao trùm cả nhân loại

Sự vận động hình tượng thơ

Lặp từ điệp ngữ

Nhịp điệu câu thơ và ý nghĩa của nó

Phân tích rõ chữ "hồng" ở cuối câu

=> Cảm nhận về trái tim của Người

=> Trong thơ có cảnh trong cảnh có tình

Đáng giá khái quát về toàn bộ tác phẩm

3. Kết bài: Cảm nhận của bản thân

Về nghệ thuật

Về nội dung

Về tâm hồn bác trong bài thơ

Dàn ý số 3

I. Mở bài:

Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm

– Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

– Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca về cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao của Hồ Chí Minh.

II. Thân bài:

* Hai câu đầu:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

– Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống, chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, những bức họa (trong bài thơ có họa) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do gần gũi về bút pháp. Còn thực ra, đây vẫn là buổi chiều nay, với cảnh thật và người thật (người tù – nhà thơ) đang tận mắt nhìn ngắm.

Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn. Quyện nghĩa là mỏi, chán, mỏi mệt. Tầm là tìm kiếm. Cánh chim sau ngày rong ruổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú. Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng, không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông. Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua, nhưng đám mây đơn lẻ kia đã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn. Hai câu thơ, theo đúng nghĩa đen cũng chỉ ra một cảnh buồn. Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy, lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến người ta liên tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sừng mục tử lại cô thôn

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

Dặm liễu sương sa khách bước dồn

Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

(Cảnh chiều hôm – Bà Huyện Thanh Quan)

Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn. Còn cảnh ở đây, vốn là đơn chiếc. Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội trở về. Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang lê bước trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi đau rất thật từ cảnh tình ấy?

* Hai câu cuối

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

– Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối len dày muôn nơi. Vậy, điều gì khiến người ta cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối? Đó là cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi. Đây cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.

– Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy. Nếu cảnh ở trên mang nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống. Đôi mắt của người nghệ sĩ ở cảnh trước khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút và trống trải. Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp hình ảnh không ngờ:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

– Vóc dáng người thôn nữ cùng với công việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua đi sự cô quạnh giữa miền sơn cước. Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập.

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.

Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan tỏa. Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại cùng với ánh lửa kia. Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ được trọn vẹn.

III. Kết bài:

"Mộ" là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh Khi sử dụng thể thơ luật Đường, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn bút pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt là lấy cảnh tả tình. Trong bài thơ, không có từ hay chi tiết nói về chủ thể trữ tình, nhưng người đọc vẫn nhận ra đôi mắt, tấm lòng của con người ấy. Tuy nhiên, dù mang phong vị cổ điển, đây vẫn là bài thơ hiện đại. Chất hiện đại bộc lộ ở sự vận động hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng của thi nhân. Dù bị gông cùm, xiềng xích, con người đó vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để nhìn ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện, dù chỉ nhỏ nhoi, tinh tế.

Dàn ý số 4

I. Mở bài: giới thiệu bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù

Ví dụ:

Hồ Chí Minh là một vị cha già của dân tộc Việt Nam, là một vị anh hùng của dân tộc. Bên cạnh làm chính trị, Bác còn có một kho tàn những tác phẩm văn học quý giá và to lớn. Bác đã để lại cho dân tộc một kho tàn các tác phẩm văn học đặc sắc, nổi bật là bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù. Bài thơ thể hiện là cảm hứng khi Bác chuyển lao tù, chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm.

II. Thân bài: Phân tích bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù của HCM

1. Hai câu đầu: bức tranh thiên nhiên

Con người luôn hướng về thiên nhiên

Cảnh chiều tối âm u, hiu quạnh, vắng vẻ

Hình ảnh mang tượng trưng cho cảnh chiều tà

Hình ảnh chòm mây gợi tả không gian mênh mông, rộng lớn

Hình ảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển, thơ mộng

Qua hai câu thơ cảm nhận được ý chí, nghị lực của con người

2. Hai câu thơ cuối: bức tranh đời sống

Những hình ảnh đời sống dân dã, đời thường

Bức tranh gần gũi, quen thuộc, mộc mạc

Hình ảnh con người lấn át hình ảnh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn nhưng vắng vẻ

Thể hiện tình yêu thương, quan tâm đến số phận của người lao động nghèo

Ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người nghèo

Bừng lên sức sống mãnh liệt của con người

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù của HCM

Ví dụ:

bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù của HCM cho ta cảm nhận được phong cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn nhưng vắng vẻ, nhưng không gian ấy đã bị lấn áp bởi hình ảnh con người lao động cực khổ.

Dàn ý số 5

a) Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

+ Hồ Chí Minh là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đồng thời là một nhà thơ lớn, một nhà văn với phong cách nghệ thuật độc đáo, vừa đa dạng vừa thống nhất.

+ Bài thơ Chiều tối rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng.

– Dẫn dắt vấn đề: Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Chiều tối.

b) Thân bài

* Vẻ đẹp cổ điển:

– Sự xuất hiện của những hình ảnh ước lệ quen thuộc và bút pháp chấm phá thường thấy trong thơ xưa:

+ Hình ảnh cánh chim mỏi bay về tổ và đám mây cô lẻ trôi trên bầu trời.

+ Không một chữ chiều, chỉ bằng hai nét chấm phá, tả ít gợi nhiều đã làm hiện lên cái hồn của cảnh vật: Cánh chim nhỏ nhoi nhẹ bay mỏi và đám mây lẻ loi nhẹ trôi trên bầu trời.

+ Tác giả đã sử dụng thi pháp cổ rất sáng tạo:

Hình ảnh ước lệ quen thuộc;

Bút pháp chấm phá;

Lấy điểm vẽ diện;

Lấy động tả tĩnh;

Lấy ánh sáng để miêu tả bóng tối (Chữ "hồng")

-> Gợi một bầu trời bao la, một không gian tĩnh lặng vắng vẻ, cảnh đẹp mà thoáng buồn.

+ Cánh chim bay mỏi như mang bóng tối phủ dần lên cảnh vật. Câu thơ mang phong vị của thơ cổ, bởi để tả cảnh chiều, thi nhân vẫn thường dùng hình ảnh cánh chim (Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Lí Bạch…).

+ Hình ảnh chòm mây trôi, lời thơ dịch khá uyển chuyển nhưng đã làm mất đi vẻ lẻ loi trôi nổi của áng mây khi người dịch bỏ đi chữ "cô" và chưa thể hiện hết được ý nghĩa của từ láy "mạn mạn". Câu thơ gợi nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu, Nguyễn Khuyến.

-> Tất cả những hình ảnh ấy đã tạo nên một không gian và thời gian cảnh vật quen thuộc, thường thấy trong thơ xưa.

– Đề tài và cấu tứ:

+ Đề tài: Một trong những thi đề phổ biến của thơ xưa là: “Giai thì, mĩ cảnh” (thời gian đẹp, cảnh đẹp). Thi đề này khá phổ biến trong Nhật kí trong tù, bài Chiều tối cũng có thi đề này và cảnh trong bài thơ cũng có những nét của thơ xưa: ước lệ, chân thật, tự nhiên. Buổi chiều đến với người tha hương chân mỏi trên đường xa cũng là đề tài đã xuất hiện nhiều trong thơ xưa.

+ Cấu tứ: Đậm đà màu sắc cổ điển.

Cảnh hoàng hôn gợi cho người đi xa nhớ về quê hương của mình là kiểu cấu tứ thường gặp trong thơ xưa.

Nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường nhìn thấy một làn khói sóng trên sông buổi hoàng hôn mà nhớ tới quê hương: "Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" (Hoàng Hạc Lâu).

Không chỉ trong thơ cổ Trung Hoa mà ngay trong thơ ca Việt Nam ta cũng có thể tìm thấy những bài thơ có cấu tứ như thế như bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan:

"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,

Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.

Gác mái, ngư ông về viễn phố,

Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,

Dặm liễu sương sa khách bước dồn.

Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,

Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt:

+ Đây là một thể thơ Đường luật đã được nhà thơ sử dụng một cách đắc địa, cô đúc, tài hoa phù hợp với cấu tứ và cảm xúc của bài thơ là một lí do tạo nên màu sắc cổ điển của tác phẩm.

+ Các hình ảnh thơ được thể hiện trong một cấu trúc đăng đối:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

    Cấu trúc đăng đối còn thể hiện trong mối quan hệ giữa hai câu thơ đầu với hai câu thơ cuối: nếu hai câu thơ đầu miêu tả cảnh vật thì hai câu thơ cuối lại miêu tả con người.

– Hình ảnh nhân vật trữ tình giàu tình cảm với thiên nhiên, ung dung hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ:

+ Ánh nhìn lưu luyến trìu mến với cảnh vật thiên nhiên của Bác.

+ Giữa con người và cảnh vật dường như có sự chan hòa làm một. Người xưa vẫn thường quan niệm, con người là một tiểu vũ trụ, họ ung dung tự tại trước thiên nhiên, chan hòa với cảnh vật. Bởi vậy Bác từng viết:

Thơ xưa chuộng cảnh thiên nhiên đẹp

Mây gió, trăng hoa, tuyết núi sông

(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)

=> Chiều tối có một vẻ đẹp rất gần gũi với thơ Đường thơ Tống: Thơ nghiêng về cảm hứng trước thiên nhiên, cảnh thơ thường bao quát một không gian rộng lớn, chỉ chấm phá vài nét mà thu được cả linh hồn của tạo vật.

    Nếu như Chiều tối chỉ mang vẻ đẹp cổ điển, thì chắc chắn bài thơ sẽ bị lẫn với hàng nghìn bài thơ cổ khác, thú vị là ở chỗ, bài thơ còn lung linh một sức sống hiện đại. Chính màu sắc hiện đại đã mang đến cái màu sắc, cái độc đáo và sức trẻ cho thi phẩm.

* Vẻ đẹp hiện đại:

– Thể hiện ở những hình ảnh động, ấm áp, bút pháp tả thực sinh động, những hình ảnh dân dã đời thường:

+ Nếu trong thơ xưa cảnh thường tĩnh thì trong thơ Bác cảnh thường vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Những cánh chim trong thơ cổ thường bay về chốn vô tận, vô định gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa (Độc tọa Kính Đình Sơn – Lí Bạch) ngược lại, cánh chim trong thơ Bác là cánh chim của đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp bất tận của cuộc sống đang tìm về tổ ấm, đang tìm về chốn nghỉ trong sự sống thường ngày.

+ Hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận động bên ngoài như trong thơ xưa (Cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong (cánh chim mỏi mệt).

+ Hình ảnh một chòm mây đơn lẻ là một thi liệu cổ điển nhưng trong Chiều tối lại có một sự gần gũi, đồng điệu. Áng mây trôi chậm chạp trên bầu trời mênh mông xa vời gợi liên tưởng đến tâm trạng người tù cũng đang cô đơn, mệt mỏi trên đường chuyển lao xa xôi. Con đường chuyển lao càng xa, khung trời càng rộng, càng khiến lòng người khao khát một chốn dừng chân. Nhưng vẻ đẹp của bài thơ là ở chỗ, nhà thơ đã không để lộ cái cô đơn, mệt mỏi của mình và dù cô đơn, mệt mỏi nhưng thiên nhiên vẫn được người tù cảm nhận bằng ánh mắt lưu luyến, trìu mến chứ không phải cái nhìn buồn chán, cám cảnh.

+ Hình ảnh thơ toát lên tình yêu thiên nhiên của một nhà thơ – chiến sĩ. Tâm hồn nghệ sĩ của Bác luôn hòa vào bầu trời rộng lớn của tinh thần mặc dù đang mất tự do về thể xác. Hai câu thơ còn thể hiện bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ cách mạng, bởi không có ý chí và nghị lực thép, không có phong thái ung dung tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì cũng khó có được những vần thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc, tinh tế như thế.

+ Theo như nhà thơ Hoàng Trung Thông: Nếu như bài thơ Chiều tối kết thúc ở câu thứ ba thì nó cũng không khác gì bài Giang tuyết của Liễu Tông Nguyên đời Đường. Giang tuyết mở đầu bằng câu Thiên sơn điểu phi tuyệt (Nghìn non bóng chim tắt) và kết thúc bằng câu: Độc điếu hàn giang tuyết (Một mình câu tuyết trên sông lạnh). Đây là bài thơ lẻ loi quá chừng, lạnh lẽo quá chừng. Sự khẳng định ấy, đã chứng tỏ rằng, Hồ Chí Minh rất Đường mà không Đường một chút nào, với một chữ "hồng" Bác đã làm rực sáng lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, uể oải, nặng nề.

+ Hình ảnh bếp lửa hồng là một hình ảnh đời thường dân dã được cảm nhận bằng cảm quan rất hiện đại của thi sĩ.

– Hình ảnh nhân vật trữ tình trong quan hệ với thiên nhiên là chủ thể, là trung tâm của bức tranh phong cảnh.

+ Nhân vật trữ tình trong thơ xưa thường ẩn đi, chìm đi giữa thiên nhiên nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Bác thường hiện ra ở vị trí trung tâm của bức tranh, chiếm vị trí chủ thể trong bức tranh phong cảnh. Bài thơ Chiều tối cũng có đặc điểm như vậy, cho nên bài thơ có màu sắc cổ điển nhưng vẫn là thơ hiện đại.

+ Hình ảnh cô gái lao động vùng sơn cước:

Nổi bật thành trung tâm của bức tranh chiều tối tĩnh lặng đã gợi sự ấm áp của cuộc sống nhất là với người tù đang bị đày ải nơi đất khách quê người.

Lời dịch thơ "cô em" làm mất đi sự trẻ trung, khỏe khoắn của hình ảnh thiếu nữ và cái nhìn trân trọng của nhân vật trữ tình đối với con người.

Hình ảnh người phụ nữ đã xuất hiện nhiều trong thơ chữ Hán nhưng phần nhiều họ thuộc giới trung lưu, thượng lưu. Nếu có hình ảnh người lao động cũng chỉ là những hình ảnh thoáng qua để tô điểm cho bức tranh thiên nhiên. Ở đây, hình ảnh cô gái xay ngô được đặt ở vị trí trung tâm của bức tranh phong cảnh chiều tối, đã làm cho bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh của cuộc sống ấm áp.

Hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ trẻ trung, khỏe mạnh, sống động như chính cuộc sống lao động bình dị đã trở nên đáng quý, đáng trân trọng biết bao giữa rừng núi chiều tối âm u, heo hút. Đây là hình ảnh dân dã đời thường được thể hiện với bút pháp tả thực sinh động của nghệ thuật tả thực hiện đại. Hình ảnh này đã đem đến cho người đi đường lúc chiều tối chút hơi ấm của sự sống, chút niềm vui và hạnh phúc trong lao động của con người. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên bếp lửa gia đình, khung cảnh bình dị nhưng thật đầm ấm thân thương của sự sum họp. Nghệ thuật điệp liên hoàn hoán chuyển trong nguyên bản "ma bao túc – bao túc ma" gợi được vòng quay của chiếc cối xay ngô, sự vất vả của công việc lao động, nhưng cô vẫn miệt mài xay xong.

+ Hình ảnh người tù:

Dù đang cô đơn, mệt mỏi trên đường chuyển lao nhưng trong khoảnh khắc dừng chân bên xóm núi đã nhanh chóng hòa nhập vào nhịp sống bình dị của người lao động.

Bác cảm thông, chia sẻ với người lao động.

Trong lòng Bác đang sáng lên một niềm vui ấm áp của tình yêu cuộc sống, vẫn hướng về bếp lửa hồng như thầm mong ước một cảnh gia đình đầm ấm. Đúng là chất thơ của Chiều tối suy cho cùng chính là chất thơ của tình yêu cuộc sống.

+ Trong nguyên bản của bài thơ không có chữ tối nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự chuyển dịch của thời gian từ chiều qua tối qua hình ảnh bếp lửa hồng. Ý thơ vì thế không lộ như bản dịch thơ và bộc lộ được tài năng của thi sĩ. Hình ảnh ngọn lửa hồng nổi bật, rực sáng, ấm áp càng làm tôn lên vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn của người thiếu nữ lao động, vừa xua bớt bóng tối đang phủ lên cảnh vật, vừa xua tan cái lạnh lẽo cô đơn trong lòng người tù đang bị đày ải.

+ Bài thơ tả cảnh chiều nhưng kết thúc không phải bóng đêm âm u mà là ngọn lửa bừng sáng ấm áp của cuộc sống lao động. Từ "hồng" ở đây vì thế không chỉ để chỉ màu sắc mà còn là ánh sáng và sự ấm áp. Từ "hồng" lại được kết hợp với một từ mạnh "dĩ" (rực) nên hình ảnh thơ càng nổi bật. Nó là sự hội tụ, kết tinh ánh sáng của toàn bài, là hình ảnh của sự sống thường nhật và niềm vui lao động. Vì thế từ "hồng" chính là thi nhãn của bài thơ.

+ Bài thơ tuy viết trong cảnh ngộ riêng đầy đau khổ nhưng Bác đã quên đi sự đau khổ của mình, vẫn dành một chỗ trong tâm hồn cho tình yêu thiên nhiên và vẫn nằng tình thương mến chia sẻ niềm vui và công việc rất đỗi bình thường của người lao động. Chính tình yêu cuộc sống ấy đã giúp Bác vượt qua được những chặng đường gian nan nhất của cuộc đời Cách Mạng.

* Đánh giá:

– Thơ Bác đậm đà màu sắc cổ điển vì Bác là người phương Đông, mang trong mình truyền thống phương Đông rất đậm đà (đó là tình yêu thiên nhiên, chan hòa với thiên nhiên, yêu thú điền viên, lâm tuyền với phong thái thanh cao); Bác lại am hiểu thơ Đường, giỏi chữ Hán.

– Nhưng thơ Bác không hẳn là thơ xưa bởi thơ Bác là một hồn thơ Cách Mạng mang lí tưởng của một tinh thần thép, của một chiến sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân. Đó là chỗ khác thơ xưa, đồng thời đó là chỗ hơn thơ xưa của Bác. Thơ Bác sáng ngời tình thần thời đại, nó là tiếng thơ của người cộng sản vĩ đại.

– Hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong Chiều tối không tách rời nhau mà kết hợp hài hòa với nhau làm nên vẻ đẹp riêng độc đáo của bài thơ, của phong cách thơ Hồ Chí Minh.

c) Kết bài:

– Khái quát vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của Chiều tối

– Nêu cảm nhận của em.

Leave a Comment