Dàn ý Cảm nhận bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu

Dàn ý số 1 1. Mở bài – Xuân Diệu vốn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình, nên thơ của ông viết về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ luôn rất tình …

Dàn ý số 1

1. Mở bài

– Xuân Diệu vốn được mệnh danh là ông hoàng thơ tình, nên thơ của ông viết về mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ luôn rất tình cảm, nồng nàn và đầy nhiệt huyết

– Vội vàng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Xuân Diệu.

2. Thân bài

* Bốn dòng đầu:

– Khao khát được giữ lại những gì tươi đẹp nhất của cuộc sống, muốn "tắt nắng", "buộc gió"

– Cái tôi ngông cuồng và hồn nhiên cùng được được bộc lộ.

* 7 dòng tiếp "Của ong bướm…cặp môi gần"

– Bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp

+ Ong bướm say mê trong "tuần tháng mật"

+ Hoa rực rỡ trong màu "xanh rì" của đồng nội

+ Cành tơ phơ phất đùa vui với gió xuân

+ Âm thanh rộn rã, náo nhiệt như khúc nhạc "tình si" của cặp yến anh

=> Tất cả đều có đôi có cặp, khiến ta liên tưởng đến một tình yêu hạnh phúc, ngọt ngào, say mê.+ Hình ảnh "ánh sáng chớp hàng mi" => Liên tưởng đến ánh nắng lọt qua rèm mi của cô gái trẻ in bóng trên gương mặt xuân sắc, đây là hình ảnh nhiều sức gợi.

+ Chuyển đổi cảm giác từ thị giác, thính giác sang vị giác, cảm nhận tháng giêng, mùa xuân tựa một món ăn thật mỹ vị, cảm giác căng tràn sức sống mịn màng từ đôi môi của người con gái trẻ tuổi đang đắm chìm trong tình yêu.

* 11 dòng tiếp "Tôi sung sướng…cả đất trời":

– Nỗi hoang mang sợ mùa xuân qua đi của Xuân Diệu ngay chính giữa mùa xuân

– Phát hiện quy luật của thời gian của tạo hóa, mùa xuân tuần hoàn, nhưng cuộc đời chỉ có một.

– Hờn trách cuộc đời, tuổi xuân của con người quá ngắn, không đủ cho Xuân Diệu được tận hưởng.

– Nỗi tiếc nuối sâu sắc về những vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc sống, "tiếc cả đất trời".

* 7 dòng thơ tiếp "Mùi tháng năm…chẳng bao giờ nữa…":

Không chỉ riêng mình Xuân Diệu phải chịu sự khắc nghiệt của quy luật thời gian, của tạo hóa mà cả vũ trụ đều nằm trong nỗi buồn ấy.

* Mười câu thơ cuối: "Mau đi thôi…cắn vào ngươi!"

– Chân lý sống mới của Xuân Diệu, chạy đua với thời gian, sống "vội vàng" để tận hưởng.

– Những khao khát mãnh liệt thể hiện trong điệp cấu trúc "Ta muốn…", trong những động từ mạnh, lạ: "ôm, riết, thâu, cắn".

3. Kết bài

– Vội vàng của Xuân Diệu là một bài thơ xuất sắc về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống và tình yêu.

– Thể hiện những khao khát thật mãnh liệt, có khi thật ngông cuồng về ước muốn tận hưởng trọn vẹn mùa xuân tươi đẹp, đó là mùa xuân thiên nhiên và cũng là mùa xuân của cuộc đời.

– Quan điểm thật sâu sắc về cuộc sống, về thời gian cũng được Xuân Diệu tinh tế lồng ghép thật khéo léo trong từng vần thơ của mình.

Dàn ý số 2

I. – Mở Bài – Trích trong tập “Thơ-Thơ” (1938).

 – Ba phần:

 + Câu 1-11: Tâm trạng reo vui trước vẻ đẹp thiên nhiên.

+ Câu 12-30: Tâm trạng u buồn, hoài nghi. + Câu 31-40: Lòng yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt. II. Thân Bài 1. Tiếng reo vui trước vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân (Câu 1-11) * “Tôi muốn – tắt nắng đi” “Tôi muốn – buộc gió lại” Điệp ngữ dùng động từ mạnh => Biểu hiện niềm khao khát, say mê muốn níu giữ, đoạt quyền tạo hóa. * Thiên nhiên: Là khu vườn xuân đầy cảnh sắc: + ong bướm tuần tháng mật” Bức tranh đẹp, mơn mởn, tươi tắn +“Này đây hoa đồng nội”, " lá cành tơ” => dạt dào nhựa sống. + điệp ngữ yến anh khúc tình si”: âm thanh rộ rã + Giọng thơ dồn dập, biểu hiện tâm trạng vui sướng, say đắm trước cảnh thiên nhiên muôn sắc màu, phong phú, bất tận. + “Ánh sáng chớp hàng mi” => hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ, giàu cảm xúc. + “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” Mùa xuân đẹp so sánh ngọt ngào đầy sức sống tươi thắm => Diễn đạt độc đáo, táo bạo, dùng hình ảnh con người để diễn tả thiên nhiên (lấy cái đẹp của con người làm chuẩn mực để đánh giá, so sánh) => cho thấy: lòng khao khát sống đến cuồng nhiệt (quan điểm sống tích cực)

=> sống hết mình vì cuộc sống.

 2. Tâm trạng u buồn, lo sợ, hốt hoảng, hoài nghi (c.12-30):

* “Tôi vui sướng. Nhưng vội vàng…” => Dấu chấm => câu ngắn => bất thường: Vui vội vàng. * “Tôi không chờ…” => gấp gáp: Trong sự đam mê cuộc sống xen lẫn nỗi lo âu, hốt hoảng, sợ tuổi trẻ quađi. * Ý thức được sự hữu hạn của thời gian: “Xuân đang tới nghĩa là… qua Xuân còn non nghĩa là… sẽ già Mà xuân hết nghĩa là… mất.” => Giọng thơ khô khan, lời thơ ngắn => tâm trạng lo lắng, sợ hãi, hốt hoảng vì thấy đã mất trong cái đangcó. * Ý thức được sự đối kháng: thiên nhiên > < con người: + Lòng tôi rộng + lượng trời chật + Tuổi trẻ chẳng 2 lần + xuân vẫn tuần hoàn + Chẳng còn tôi mãi + còn trời đất Đời người hữu hạn Thiên nhiên vĩnh hằng => là qui luật tất yếu, tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng, khao khát sống mãi với cuộc đời. * Thiên nhiên nhuốm màu buồn bã trước thời gian: Những từ ngữ, hình ảnh: “Tôi tiếc, chia phôi, tiễn biệt, đứt tiếng, phai tàn…” => kết lại ở câu “Chẳng bao giờ!…” kết hợp các câu có dấu chấm hỏi, chấm than, các cặp vần chân gieo liên tiếp => Tâm trạng chán nản, đau khổ, nuối tiếc.

 3. Tình yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt:

+ Khát vọng sống cao độ thể hiện sự giao cảm với cuộc sống:

– “Ta muốn riết”, ôm, say, thâu, chếnh choáng: Điệp ngữ, nhịp thơ dồn dập, sôi nổi, nồng nàn, giọng thơ cuống quýt, khao khát sống, muốn tận hưởng trọn vẹn hương vị tình yêu, hương vị của cuộc đời ==>Yêu cuộc sống đến độ nồng nàn, – sống hết mình, tận hưởng cái đẹp ==>cuộc sống với tâm trạng sảng khoái. – Câu thơ “Hỡi… muốn cắn…”: diễn đạt táo bạo, rất mới lạ => mùa xuân quá hấp dẫn => niềm ham sống mà chưa toại nguyện, khát khao muốn giữ lấy cái vui, cái đẹp của cuộc đời. III. KẾT: * Lòng yêu tuổi xuân, mùa xuân, yêu cuộc sống, khao khát hòa nhập với thiên nhiên, với cuộc đời một cáchsay mê, cuồng nhiệt của Xuân Diệu. * Là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu; hình ảnh, từ ngữ, cách diễn đạt táo bạo, mới lạ. Thểhiện hồn thơ Xuân Diệu: một tấm lòng tha thiết yêu cuộc đời, niềm khát khao giao cảm với đời => mang đậm chất nhân văn

Dàn ý số 3

I. MỞ BÀI

1. Rút trong tập Thơ thơ,  tập thơ đầu của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938.

 

2. Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết quý trọng và sống hết mình với tuồi trẻ và thời gian

II. PHÂN TÍCH

1. Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

– Thiên nhiên rất đẹp, đầy hương sắc của hoa đồng nội xanh rì, của lá cành tơ phơ phất, tuần tháng mật của ong bướm, khúc tình si của yến anh, và này đây ánh sáng chớp của hàng mi. Chữ này đây được nhắc lại năm lần để diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng tắt nắng đi và buộc gió lại. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.

– Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc Thần Vui hằng gõ cửa. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, ngon như một cặp môi gần. Một chữ ngon chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.

   Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh xuân bừng sáng, nhưng thi sĩ đã vội vàng một nửa – cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn về vội vàng:

   Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

      Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

   Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoài niên mà đã “vội vàng một nửa” … Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.

2. Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

– Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ một đi không trở lại.

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

   Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…

   Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, hết – mất, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý tuổi xuân.

– Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và tương lai; cái đang có lại đang mất dần đi…

   Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình  như  mang theo nỗi buồn chia phôi hoặc tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa. Cám xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương, vội vàng của tạo vật. Với Xuân Diệu, hầu như cuộc sống nơi vườn trầu đều ít nhiều mang bi kịch về thời gian.

Mùi tháng năm đểu rớm vị chia phôi

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.

   Cũng là gió, là chim… nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót. ngừng rao vì sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để là nổi bật nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

 Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

   Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

   Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối. Lo lắng. Chợt tỉnh mùa chưa ngã chiều hôm, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

Chẳng bao giờ/ ôi/ Chẳng bao giờ nữa…

Mau đi thôi/ mùa chưa ngả chiều hôm…

   Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm Thơ tiếc cảnh :

Xuân xanh chưa dễ hai phen lại

Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.

  Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm.

 Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm  nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ. Thật yêu đời. Thật ham sống.

3. Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người!

– Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở: Tôi muốn tắt nắng đi. Kết thúc bài thơ là ta, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong dòng chảy thời gian: Sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: ta muốn ôm, ta muốn riết, ta muốn say, ta muốn thâu.

Ta muốn ôm

     Cả sự sống mới bắt đầu man mởn

    Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

         Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

            Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

   Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

   Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật vắt dòng với ba từ và xuất hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cám xúc: say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơ, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là khao khát của thi nhân

Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

III. KẾT LUẬN

   Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, ích kỉ trong hưởng thụ. Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống vội vàng như vậy. 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.

   Bài thơ Vội vàng cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. Vội vàng tiêu biểu nhất cho Thơ mới, thơ lãng mạn 1932-1941.

Dàn ý số 4

1. Mở bài Bài thơ Vội vàng có một mạch lập luận:

Sự sống như thể yến tiệc trần gian, thiên đường trên mặt đất dâng hiến con người; ấy thế mà thời gian chảy ưôi đả tước đoạt, huỷ hoại chúng; cho nên hãy mau tận hưởng chúng kẻo mất sạch không còn cơ hội nào nữa. 2. Thân bài a) Sự sống ban tặng chư con người – Khổ thơ đầu tiên diễn tả những ý tưởng của nhân vật “tôi” trữ tình: tắt nắng và buộc gió, như thể đoạt quyền của tạo hoá; muốn níu giữ lại hương sấc của Mùa xuân. – Câu thơ đẹp nhất nằm trong khổ thơ thứ hai: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Đây là cách biểu đạt của Thơ mới : lấy con người làm chuẩn mực để đo thiên nhiên, vẻ đẹp của tháng giêng – mùa xuân – tuổi trẻ. W: www.hoc247.net F: www.facebook.com/hoc247.net T: 0989 627 405 Trang | 2
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai – Ý tưởng đoạt lấy sự sống, chạy đua với thời gian đã xuất hiện ở ngay những câu thơ: Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân b) Thời gian đã huỷ hoại sự sống – Thời gian cướp đi tuổi trẻ, bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.

– Thời gian đem đến chia lìa “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”.

 Sự sống bị chia cắt phũ phàng.

– Thời gian đem đến tàn phai: cơn gió, lá biếc, tiếng chim

– những vẻ đẹp mùa xuân cũng câm lặng, tàn phai theo năm tháng. Nhà thơ đang sống trong bàn tiệc xuân mà đã lo sợ nghĩ rằng rồi tất cả sẽ bị bàn tay thô bạo của thời gian cướp đoạt hết. Các hình ảnh thơ thật đẹp, càng nuôi tiếc nên càng đẹp: Cơn gió xinh thì thào trong lú biếc Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi c) Hãy tận hưởng sự sống – Chủ thể trữ tình đổi cách xưng hô: từ Tôi sang Ta. Do muôn đoạt lấy sự sống trong mọi chiều (mây, gió, non nước, cây, cỏ, cánh bướm, tình yêu), nên cái Tôi bỗng trở nên chật chội, hạn hẹp, không tương ứng. Chủ thể phải là Ta, nghĩa là cái Tôi được mở rộng, vụt lớn, trở thành cái Ta kiêu hãnh, lự tin, được quyền đòi hỏi, được quyền khẳng định một cách dõng dạc. – Các câu thơ điệp lại mô hình câu điệp lại đại từ Ta, và, cho, đã tạo nên nhịp điệu hối hả, gấp gáp. Câu thơ Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi vẫn thông nhất trong một điểm cách tân: lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp. Câu thơ khoẻ khoắn,

 T-n trề sinh lực tuổi irẻ, tham lam, vồ vập.

cả khổ thơ dồn dập, tràn đầy nhiệt mg như thể cuộc quyết đâ u giữa con người tuổi trẻ này với Thời gian Tạo hoá.

 3. Kết bài Cái lí của nhà thơ là ở chỗ: Tuổi trẻ được quyền sống thật, sống hết mình với khát vọng của mình, đối lập và tuyên chiến với những gì phẳng lặng và tù túng.

 Dàn ý số 5

Vội vàng là bài thơ nói về tình yêu thiên nhiên, tình yêu tuổi trẻ của đôi lứa, khi vội vàng sống trong sự chuyển động của không gian trời đất, của tuổi thanh xuân.

Thân bài:

+ Ngay trong những dòng khổ thơ tác giả đang thể hiên những mong muốn làm những việc của tạo hóa như tắt nắng, buộc gió, muốn níu giữ hương sắc của mùa xuân, tuổi trẻ.

+ Tuổi trẻ được tác giả miêu tả là tháng giêng ngon như một cặp môi gần thể hiện sự trẻ trung, của mùa xuân tuổi trẻ.

+ Tiếp là sự chạy đua với thời gian tuổi trẻ, ngỡ ngàng và nhận ra thời gian trôi quá nhanh: “ Tôi sung sướng/ Nhưng vội vàng một nửa/ Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

+ Thời gian trôi đi làm thời gian của tuổi trẻ cũng chẳng qua giờ thắm lại, sự phũ phàng của thời gian “rớm vị chia phôi”, “than thầm tiễn biệt”, sự chia cắt làm cho mọi vật trở nên tàn phai theo năm tháng.

+ Tác giả vội vàng hưởng thụ những hương vị của tuổi thanh xuân, vội vàng sống và được tận hưởng sự sống của tuổi trẻ, nhân vật trữ tình ở đây da diết sống, và nỗi buồn khi thời gian trôi nhanh như một cơn gió.

+ Tác giả thể hiện ước muốn dâng hiến cho cuộc sống, muốn sống cuộc đời căng tràn nhựa sống của tuổi trẻ, tác giả vồ vập sống cuộc sống trọn vẹn với tuổi trẻ.

Kết bài:

+ Vội vàng là bài thơ xuất sắc của Xuân Diệu, ông sáng tác bằng những ngôn ngữ nhẹ nhàng, lưu loát và uyển chuyển cùng với không gian thiên nhiên, cảnh vật vô cùng xuân sắc của thời gian tuổi trẻ.

 

Leave a Comment