Dàn ý cảm nhận bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Dàn ý số 1  Mở bài Phân tích Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Giới thiệu tác phẩm, tác giả “Tám năm xa quê hương Trăn năm gần Đồ Chiểu Nay lòng ta càng hiểu …

Dàn ý số 1

 Mở bài Phân tích Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Giới thiệu tác phẩm, tác giả

“Tám năm xa quê hương

Trăn năm gần Đồ Chiểu

Nay lòng ta càng hiểu

Thơ là súng là gươm”

(Lê Anh Xuân)

– Người nông dân nghĩa sĩ là hình tượng trung tâm của bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là nhân vật tập thể được Nguyễn Đình Chiểu tạc vào lịch sử bằng tất cả tình cảm tiếc thương quí trọng cảm phục của nhân dân…

– Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên xây dựng thành công hình tượng người nông dân trong văn học. Tiêu biểu là tác phẩm văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Thân bài Phân tích Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

1. Lung khởi (2 cầu đầu): khái quát chung về khung cảnh thời đại và ý nghĩa cái chết của nghĩa sĩ

– “Hỡi ôi” là thán từ thể hiện niềm tiếc thương nghẹn ngào xót xa trong lòng người đứng tế. Họ đã nêu lên cảm tưởng khái quát về khung cảnh thời đại “súng giặt đât rền, lòng dân trời tỏ”.

+ Hình ảnh không gian to lớn (đất, trời), các từ ngữ biểu hiện trạng thái động thể hiện sự khuếch tán âm thanh và ánh sáng (rền, tỏ) tạo ấn tượng hoành tráng cho bức chân dung tượng đài được khắc họa.

+ Nghệ thuật đối lập trong hai câu văn làm nổi bật tình thế căng thẳng: một là sự hiện diện các thế lực vật chất xâm lược tàn bạo, bên còn lại là ý chí, nghị lực của lòng dân quyết tâm chống giặt cứu nước.

 

→ Một thời đại bão táp hiện ra tuy cuộc chiến không cân sức và vô cùng quyết liệt nghiêm trọng nhưng tấm lòng, ý chí yêu nước của người dân mạnh mẽ sáng ngời.

⇒ Hai câu lung khởi đã khái quát về cái chết của đội quân Cần Giuộc, 1 cái chết bất tử tiếng thơm còn mãi muôn đời.

2. Thích thực (Câu 3 → câu 15): Quá trình đi từ cuộc đời lao động nghèo đến cuộc đời chiến đấu vẻ vang.

– Lai lịch, nguồn gốc của người nghĩa sĩ

+ Họ vốn là người nông dân cả đời gắn bó với mảnh ruộng, việc thường nhật “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm” vì thế họ không quen với việc nhà binh “ tập khiêng, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”

+ “Cui cúc” gợi ra cuộc sống âm thầm lặng lẽ chịu thương chịu khó gắn bó với đồng ruộng. “Toan lo nghèo khó” quanh năm làm ăn vất vả mà vẫn lo đói rách

→ Người nông dân có sự chuyển biến về tư tưởng tình cảm, họ căm thù giặc sâu sắc

– Họ sẵn sàng tham gia nghĩa quân “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.  à Tinh thần tự nguyện, xả thân vì nghĩa lớn của người nông dân, bất chấp mọi thiếu thốn, khó khăn để tham gia chiến đấu vì mến nghĩa.

– Trung tâm của bức tranh chiến trận là hình ảnh người lính được khắc họa hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực với những vũ khí thô sơ, kinh nghiệm ít ỏi nhưng cái chết không làm họ nản lòng khi chiến đấu với vũ khí tối tân của giặc.

– Sự tương phản giữa vũ khí trang bị của người nông dân là những vật dụng hằng ngày trong cuộc sống lao động với kẻ địch là tăng thêm vẻ đẹp tráng ca của hình tượng con người vùng lên như bão táp, nổi lên tính chất chính nghĩa của khối đại đoàn kết đại diện cho người dân.

→ Sử dụng từ ngữ chọn lọc, giản dị, phép tu từ so sánh đối lập khắc họa thành công vẻ đẹp hình thức và phẩm chất tinh thần của người nông dân nghĩa sĩ tạo nên bức tượng đài bất hủ.

3. Ai vãn (câu 16 → câu 25): Lòng tiếc thương, đau xót và thái độ cảm phục của tác giả đối với nghĩa sĩ

– Đoạn hồi tưởng hào hứng, sôi nổi bao nhiêu thì càng lâm li thấm thía bấy nhiêu. Tác giả đã cất tiếng nói đồng vọng từ triệu con người, nhân dân cả nước đang hướng về nơi đầu sóng ngọn gió cuộc đời đụng độ với kẻ thù. Bao trùm là nỗi đau khôn cùng, nỗi đau của chính những liệt sĩ đã phải hy sinh khi chí nguyện chưa thành.

– Con người, cây cỏ, sông núi tất cả chìm trong đau thương, trong tiếng khóc. Họ khóc cho những người phải ra đi khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành. Khóc cho tình cảm đau thương của đất nước.

⇒ Bằng tình cảm tiếc thương và lòng ngưỡng mộ người nông dân nghĩa sĩ, nhà văn đã viết những câu văn xúc động thắm thiết. Đó không chỉ là tấm lòng của Đồ Chiểu mà còn là tấm lòng của cả dân tộc đối với những người nghĩa sĩ.

4. Đoạn kết: Còn lại. Ca ngợi linh hồn bất tử và nêu cao ý chí diệt thù.

– Lời khẳng định sâu sắc tận đáy lòng của tác giả: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”: trận chiến kết thúc, bao người nghĩa sĩ anh dũng hy sinh thì danh tiếng nghìn năm mãi còn lưu, luôn hướng về những người nghĩa sĩ cao đẹp

– Ca ngợi tinh thần không quản khó khăn, coi thường cái chết xả thân vì nghĩa, quên thân, đặt đất nước lên trên mà dũng cảm chiến đấu, hy sinh trong anh dũng, niềm tiếc thương của người ở lại

– Khúc ca bi tráng tiếc thương của cả một dân tộc, của thời đại về những người anh hùng bất tử thát thế

→ Người nghĩa sĩ mãi mãi bất tử trong lòng non sông, con người.

Kết bài Phân tích Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

– Tác phẩm văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ

– Lồng ghép suy nghĩ của bản thân.

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Giới thiệu: vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

+ Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (1859)

+ Phong trào vũ trang kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ (Trương Định).

+ Đêm rằm 16-12-1861, Bùi Quang Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở Cần Giuộc.

+ Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní.

+ Pháp phải điều động tàu chiến nã đại bác từ sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn.

+ Phía nghĩa quân hi sinh 27 người.

b. Vẻ đẹp người nông dân

+ Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn”sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp.

+ Lòng căm thù, ghét cay ghét đắng trướng hình ảnh kẻ thù xâm chiếm đất nước ta.

+ Lòng yêu nước cao độ.

+Tinh thần chiến đấu dũng cảm chống quân thù.

+ Hi sinh anh dũng.

c. Nhận xét chung Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

+ Những người nghĩa sĩ vô danh vì “chết vinh hơn sống nhục”.

+ Tượng đài của nhiều người của một tập thể anh hùng.

+ Nguyễn Đình Chiểu là người sớm nhận thấy được khá rõ tinh thần chiến đấu dũng cảm của người nông dân.

3. Kết bài

– Đánh giá chung: Vẻ đẹp hình tượng người nông dân Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Dàn ý số 3

1. Sơ lược về cuộc đời

Điều đầu tiên cần lưu ý khi phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là cần giới thiệu đôi nét về tác giả. Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là người con của đất Gia Định (Thành phố Hồ Chí Minh), đây là quê mẹ của ông, còn cha ông – ông Nguyễn Đình Huy là người Thừa Thiên Huế. Là người ham học và có tố chất, Nguyễn Đình Chiểu được gia đình quan tâm và tạo điều kiện cho học hành.

Năm 1833, ông được cha đưa ra Huế để có thêm nhiều điều kiện tốt hơn cho công việc đèn sách, vì chuyên tâm nên ông đã đỗ tú tài vào năm hai mươi mốt tuổi. Sau đó, gia đình ông gặp cơn nguy biến, mẹ ông mất, Nguyễn Đình Chiểu thương mẹ đến nỗi khóc mù cả hai mắt. Về sau, ông đã học nghề bốc thuốc chữa bệnh và trở thành một lương y, một nhà giáo tại quê nhà của mình.

2. Sơ lược về sự nghiệp văn chương

Trong sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu thể hiện tấm lòng yêu nước, thương dân sâu đậm bằng một nghệ thuật giàu sức truyền cảm. Dù là các truyện thơ hay trong những bài văn, ông đều nhất quán trong quan niệm sáng tác, đó là dùng văn chương để thể hiện đạo lí và tinh thần chiến đấu cao độ cho sự nghiệp cứu nước. Không chỉ vậy, ông còn đặc biệt quan tâm đến những tính thẩm mĩ và những giá trị thuộc về tinh thần mà các tác phẩm văn chương mang lại. Chính quan niệm sáng tác đó đã tạo nên sự đa dạng, phóng khoáng trong những sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

II. Hướng dẫn phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

1. Khái quát về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Trước khi đi vào phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, chúng ta cần khái quát về hoàn cảnh sáng tác, chủ đề cũng như thể loại của tác phẩm.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và quyết định mở cuộc tấn công xuống Cần Giuộc vào năm 1859. Nhân dân vô cùng căm phẫn và quyết tâm chống giặc. Ở Cần Giuộc, những người nghĩa sĩ đã quả cảm chiến đấu nhưng tiếc thay trong đêm tập kích đồn giặc ngày 16/12/1861, họ đã hi sinh anh dũng. Để bày tỏ niềm tiếc thương và lòng biết ơn sâu sắc, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu của những người chiến sĩ áo vải can trường, bất khuất. 

Văn tế là thể loại được viết vào để tưởng nhớ người đã mất, có thể được viết dưới dạng văn vần hoặc là văn xuôi. Một bài văn tế thường có bốn phần:

Thứ nhất là lung khởi, đây là phần khái quát chung về hoàn cảnh và sự ra đi của con người, bắt đầu bằng “Than ôi”, “Than rằng”, “Thương thay”,…

Thứ hai là phần thích thực, phần này kể về những công đức, phẩm chất tốt đẹp của người đã khuất ấy.

Thứ ba là phần ai vãn, thể hiện cảm xúc tiếc thương, đau xót về người đã khuất.

Cuối cùng là phần kết, đây là những dòng viết bày tỏ niềm tự hào và ca ngợi về sự bất khuất của họ.

2. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

a. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở cuộc sống thường nhật

Làm rõ hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sẽ tạo điểm nhấn cho bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Trước khi trở thành nghĩa sĩ thì những người lính Cần Giuộc chính là những người nông dân. Họ có xuất thân nghèo khổ từ dân ấp, dân lân “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” và “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.

Thế nhưng, những người nông dân quanh năm vất vả, lam lũ ấy lại có tính tình họ chăm chỉ, lương thiện và chính hoàn cảnh lịch sử dân tộc đã giúp họ phát huy những khả năng tiềm ẩn của bản thân để trở thành những anh hùng dân tộc thực thụ.

b. Hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong chiến đấu

Một điểm cần lưu ý nữa trong phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là làm rõ hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong chiến đấu.

Khi có thực dân Pháp sang xâm lược, những người nông dân thể hiện rõ tấm lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc.

Họ thể hiện sự căm thù giặc ngoại xâm bằng cách xung phong xông pha vào trận mạc dù trong lòng canh cánh biết bao nỗi lo. Thế nhưng, họ đã vượt qua hết tất cả những nỗi lo ấy để thể thẳng thắn thể hiện thái độ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, rồi “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ” cho thoả nỗi căm hờn.

Từ nhận thức, họ hành động. Họ quyết định “làm quân chiêu mộ”, bản lĩnh “đạp rào”, “xô cửa”, “đâm ngang”, “chém ngược” để tiêu diệt quân thù. Chính vì thế họ đã lập nên những chiến công hiển hách, nào là “đốt xong nhà dạy đạo kia”, nào là “chém rớt đầu quan hai nọ”. Họ lúc này đã trở thành một biểu tượng sừng sững về tinh thần của anh hùng cứu nước.

Tiếc thay, dù chiến đấu quả cảm nhưng cuối cùng họ phải hi sinh, nhưng đó là một sự ra đi vinh quang, bất khuất. Tác giả đã sử dụng cách nói tránh về sự hi sinh của họ: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây” nhưng dù có nói tránh thế nào thì sự ra đi ấy là một nỗi mất mát vô cùng của gia đình và dân tộc. Hình ảnh của họ xứng đáng lưu dấu trong sử sách nước nhà bằng niềm tự hào, cảm phục to lớn.

Dàn ý số 4

I. Mở bài: Thế kỷ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta . Ở Thế kỷ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra .Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu .Và, trong văn họ Việt Nam ,cho đến Nguyễn Đình Chiểu ,chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông. II. Thân bài: Nói đúng ra ,trước Nguyễn Đình Chiểu ,con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam .Tuy nhiên , đó hoặc là những ngư phủ ,tiều phu hình bóng thấp thoáng ,khi xa khi gần trong thơ bà

Huyện Thanh Quan ,hoặc là đám đông lố nhố ,hằng ngày là cục đất củ khoai ,khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí. Ngưòi nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn .Họl thật sự là những người bình thường ,là “dân áp , dân lân” , “ngoài cật có một manh áo vải” .Bản tính lại hiền lành ,chất phác ,quanh năm duốt tháng “côi cút làm ăn ,toan lo nghèo khó” .Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”,thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy ,việc bừa ,việc cấy , tay vốn làm quen.Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này ,họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ ,nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước ,trương nghĩa của người nông dân . Khi nghe tin quân giặc đến ,dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột .Trong xã hội xưa ,những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan .Dân nghe theo quan mà làm dân .Dân nhìn thấy quan mà theo >Vì thế ,họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa .Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp ,muốn tới ăn gan;ngày xem ống khói chạy đen sì,muốn ra cắn cổ. Lòng yêu nước không độc quyền của ai .Huống chi ,với những người nông dân chân chất ,khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” .vì thế ,dù là dân ấp ,dân lân ,trong tay chỉ còn một tầm vông ,họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả: Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay,cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ ,trống giục , đạp rào lướt tới ,coi giặc như không;nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ , đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang ,người chém ngựơc ,làm cho mã tà ,ma ní hồn kinh;bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ. Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức .Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tựgiác đúng lên ,không có ai tổ chức ( ai đòi ,ai bắt ) ,chẳng có binh

thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ.Họ thất thế khi xing trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to.Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc,tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai.Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó: Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây;trăm năm âm phủ ấy chữ quy,nào đợi gươm hùm trao mộ. Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” ( Phạm Văn Đồng ) .Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng.Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng:Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. III. Kết bài: Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu

ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng ngưòi nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng .Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo”và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định .Những người anh hùng “sống đánh giặc , thác cũng đánh giặc”.Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.

Dàn ý số 5

1. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu: là một người chịu nhiều bất hạnh, khổ đau trong cuộc đời, gắn bó mộc mạc, chân chất với những người dân Nam Bộ.

– Giới thiệu chung về văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

2. Thân bài:

a. Phần 1 – Lung khởi

– Mở đầu: “Hỡi ôi!”:

+ Tiếng than thể hiện tình cảm thương xót đối với người đã khuất

+ Tiếng kêu nguy ngập, căng thẳng của đất nước trước giặc ngoại xâm

=> Tiếng than lay động lòng người, nỗi xót xa, đau đớn trong lòng tác giả

+ Nghệ thuật đối: “Súng giặc đất rền” – “Lòng dân trời tỏ” => phác họa khung cảnh bão táp của thời đại

+ Hình ảnh không gian to lớn đất, trời kết hợp những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh, ánh sáng rền, tỏ => sự đụng độ giữa thế lực xâm lược hung bạo với vũ khí tối tân và ý chí chiến đấu của nhân dân ta.

– Mười năm công võ ruộng – Một trận nghĩa đánh Tây

+ Người nông dân trở thành người nghĩa sĩ, yếu tố thời gian phản ánh sự chuyển biến, sự vùng dậy đấu tranh mau lẹ của người dân yêu nước.

+ Hoàn cảnh đất nước bị Pháp xâm lược và sự phản ứng mạnh mẽ đấu tranh chống trả của nhân dân.

b. Phần 2 – Thích thực ( Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ )

– Trước khi giặc đến:

+ Lai lịch: là những người nông dân

+ Cuộc sống: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy vốn quen làm…

+ Sử dụng từ láy (cui cút) tái hiện cuộc sống chịu khó, lam lũ, bao lo toan, vất vả nhưng vẫn nghèo túng của những người nông dân. Đó là cuộc sống gắn bó với ruộng đồng, con trâu, cái cày => họ hiền lành, chất phác.

+ Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ,…=> xa lạ, không hiểu biết với công việc nhà binh, chiến tranh.

– Khi giặc đến:  mùi tinh chiên vấy vá…/ ghét thói mọi…./bữa thấy bòng bong…=> hành động tội ác và sự hoành hành ngang nhiên, khiêu khích của quân thù diệt tàn cuộc sống của người nông dân

+ Lòng căm thù giặc kìm nén qua các yếu tố thời gian: hơn 10 tháng, đã 3 năm đến mức phản ứng tự nhiên mà quyết liệt: muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ,…

+ Nhận thức: một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu => nhận thấy trách nhiệm của mình trước hoàn cảnh đất nước.

+ Hành động: Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình ; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ -> tự nguyện bổ sung vào đội quân chiến đấu với quyết tâm sắt đá.

– Cuộc chiến đấu với kẻ thù của nghĩa sĩ Cần Giuộc:

+ Điều kiện chiến đấu:

Lực lượng: không quen binh đao

Vũ khí: vật dụng thô sơ

Binh thư, binh pháp: không quen, không biết

=> Vô cùng khó khăn

+ Chiến đấu:

Tinh thần: theo tình cảm tự nhiên, không tính toán, quả cảm, khí thế vũ bão

Hành động: đạp, xô, đấm, đánh, đâm, chém,…

=> Sử dụng một loạt các động từ gợi sức mạnh, tư thế hiên ngang, tinh thần quả cảm của nghĩa sĩ.

=> Bức tranh chiến trận thể hiện rõ tinh thần bão táp, hào hùng của người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

=> Tượng đài nghệ thuật sừng sững, rực rỡ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.

c. Phần 3 – Ai vãn

– Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ => bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của người viết

– Tiếng khóc được cổng hưởng từ nhiều nguồn cảm xúc khác nhau:

+ Nỗi tiếc, ân hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở, chí nguyện chưa thành.

+ Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thân không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ.

+ Nỗi căm giận kẻ thù gây nên nghịch cảnh éo le hòa chung tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước.

+ Niềm cảm phục và tự hào vì những người nông dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, lấy cái chết làm rạng ngời chân lí cao đẹp: chết vinh còn hơn sống nhục.

+ Biểu dương công trạng của người nghĩa sĩ đời đời được nhân dân ngưỡng mộ và Tổ quốc ghi công.

=> Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà cao hơn, tác giả đã thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng của người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ gợi nỗi đau thương mà còn khích lệ tinh thần chiến đấu của người còn sống.

d. Phần 4 – Kết (Ca ngợi linh hồn bất diệt của nghĩa sĩ)

– Hai câu cuối thể hiện niềm thành kính thiêng liêng của tác giả trước hình tượng người nghĩa sĩ nông dân: nước mắt anh hùng lau chẳng ráo => giọt nước mắt chân thành của Nguyễn Đình Chiểu.

– Bài văn tế kết thúc trong giọng điệu trầm buồn. Ngữ điệu câu không trọn vẹn => giây phút mặc niệm, cái nấc nghẹn ngào đến đau đớn của Đồ Chiểu, của bao người gửi đến những nghĩa sĩ đã ngã xuống vì đất nước

=> Ngợi ca công đức của họ

3. Kết bài:

– Nêu cảm nhận chung về giá trị của văn bản.

Leave a Comment