Dàn ý cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tràng giang

Dàn ý số 1 1. Mở bài – Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang – Nêu vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp …

Dàn ý số 1

1. Mở bài

– Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, bài thơ Tràng giang

– Nêu vấn đề cần nghị luận: Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp đượm buồn được thể hiện trong bài thơ.

2. Thân bài

a) Bức tranh sông nước mênh mông, rộng lớn rợn ngợp nơi bến đò Chèm: "Sóng gợn tràng giang… mấy dòng"

* "Sóng gợn… điệp điệp": Gợi tả những con sóng gợn nhẹ trên dòng sông mênh mông gợi bao nỗi buồn triền miên

– Từ láy "điệp điệp": Cảm giác tuần hoàn, lặp đi lặp lại, quanh quẩn của nỗi buồn trong tâm hồn tác giả

– Hình ảnh nổi bật:

+ Con thuyền trôi giữa dòng tràng giang mang dấu hiệu của sự sống, tô điểm cho bức tranh sông nước, tạo sinh khí

+ "Con thuyền… song song": Thuyền và nước mang tính ước lệ tượng trưng và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên "song song" gợi tả sự chia li, nỗi "sầu trăm ngả"

+ Phép tiểu đối "thuyền về nước lại": Thổi vào khung cảnh một khối u sầu, một dự cảm và nỗi buồn thương sâu sắc

+ "Củi một cành khô… mấy dòng": Hình ảnh ẩn dụ cho biết bao kiếp người nhỏ bé, cô đơn trôi dạt trên dòng sông cuộc đời rộng lớn.

b) Khung cảnh hoang vắng trên sông: "Lơ thơ cồn nhỏ… bãi vàng"

– "Lơ thơ… đìu hiu": Sự kết hợp các từ láy "lơ thơ, đìu hiu" trong cùng một câu thơ + biện pháp tu từ nhân hóa => Nhấn mạnh thêm nỗi buồn, cả một khoảng không rộng lớn chỉ còn vài cồn cát thưa thớt, vài ngọn gió hắt hiu khiến cho nỗi buồn càng thêm thấm thía.

– "Đâu tiếng làng xa… chợ chiều": Từ "đâu" được đặt ở đầu câu thơ như sự lắng nghe của Huy Cận giữa không gian cô quạnh hoặc có thể hiểu đó là một câu hỏi bâng khuâng với trời đất,…

=> Khung cảnh chợ chiều đã tàn ở làng quê nghèo miền Bắc những năm trước Cách mạng càng khiến lòng người thêm buồn xơ xác

– "Nắng xuống trời lên, sâu chót vót": Phép tiểu đối "nắng xuống, trời lên" + sự kết hợp từ ngữ đầy sáng tạo "sâu chót vót" làm cho khung cảnh càng trở nên sâu rộng hơn và trong khung cảnh ấy, sự cô đơn của con người cũng đến cùng cực.

– Phép tiểu đối "sông dài trời rộng" + cụm từ "bến cô liêu": Tận cùng sự mênh mang của cảnh vật và nỗi cô độc của con người.

– "Bèo dạt… hàng nối hàng": Hình ảnh ẩn dụ gợi lên thân phận của bao kiếp người nổi trôi, lênh đênh, vô định giữa dòng sông cuộc đời rộng lớn.

+ Câu hỏi tu từ "về đâu" khắc khoải, da diết đặt ra cho cuộc đời, cho xã hội và chính bản thân người nghệ sĩ

+ Từ láy "mênh mông", "lặng lẽ" kết hợp với điệp từ "không", cụm từ "không một chuyến đò ngang, không cầu": Khắc họa rõ nét sự hoang vắng của cảnh vật và sự cô đơn, lạc lõng của con người.

– "Bờ xanh tiếp bãi vàng": Gợi tả khung cảnh mênh mông đến hút tầm mắt, trong khung cảnh ấy, con người hiện lên thật nhỏ bé, cô đơn.

c) Bóng chiều và nỗi niềm tâm sự của nhà thơ: "Lớp lớp… nhớ nhà"

– Bức tranh hoàng hôn có:

+ Mây và núi "Lớp lớp… núi bạc": Từ "đùn" kết hợp với từ láy "lớp lớp" tạo nên khung cảnh hùng vĩ, bao la.

+ Xuất hiện cánh chim nhỏ bé "chim nghiêng cánh nhỏ": Hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc của thi ca.

– Đứng trước khung cảnh bao la ấy, nhà thơ trào dâng nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nỗi buồn trước thực cảnh đất nước đầy rối ren.

3. Kết bài

– Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận.

– Nêu cảm nhận của bản thân về bức tranh thiên nhiên trong Tràng giang.

Dàn ý số 2

Tìm hiểu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang

Trước khi phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang của Huy Cận, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả cũng như tác phẩm.

Đôi nét về nhà thơ Huy Cận

Huy Cận (sinh năm 1919 – mất năm 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, ông học ở quê rồi vào Huế học hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học trường cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận tích cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh.

Ông tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng toàn quốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau. Năm 1996, ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Trong lĩnh vực văn học, Huy Cận đã có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà và là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ mới. Huy Cận yêu thích thơ Đường nhưng đồng thời cũng chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Vì thế trong thơ của Huy Cận, ta vừa bắt gặp những nét lãng mạn đậm chất phương tây lại vừa bắt gặp vương vấn trong mỗi vần thơ phong vị Đường thi.

Sáng tác của Huy Cận có thể chia ra làm hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng tám. Dù ở giai đoạn nào, Huy Cận cũng đạt được nhiều thành tựu. Trước cách mạng Tháng tám, có thể nhắc đến tập thơ Lửa thiêng (1937 – 1940), văn xuôi Kinh cầu tự (1942), tập thơ Vũ trụ ca (1940 – 1942). Sau cách mạng Tháng tám, ông có bút lực dồi dào hơn và có nhiều đổi mới.

 

Huy Cận tìm thấy sự hòa điệu giữa con người và xã hội. Điều đó được thể hiện trong các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm sáu mươi (1968)…

Tìm hiểu về bài thơ Tràng giang

Bài thơ Tràng giang được trích từ tập thơ Lửa thiêng. Vào năm 1939, một buổi chiều thu, ông đứng ở bờ nam bến Chèm. Khi nhìn thấy dòng chảy của sông Hồng, ông suy nghĩ về cuộc đời và sáng tác nên bài thơ này. Khung cảnh sông nước hữu tình cộng hưởng với tâm hồn đa cảm của nhà thơ đã gợi tứ cho “Tràng Giang”. Và tiêu đề của bài thơ đã là một điều gì rất đẹp nhưng buồn. Phân tích thiên nhiên Tràng giang, ta thấy đó là nỗi niềm của một cái tôi cô đơn lạc lõng giữa dòng chảy của cuộc đời được thể hiện rõ nét qua khung cảnh thiên nhiên.

cảm nhận bức tranh thiên nhiên tràng giang của huy cận

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tràng giang của Huy Cận

Cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tràng giang của Huy Cận

Từ muôn đời nay, thiên nhiên vẫn luôn là người bạn tri âm tri kỷ của hồn mộng thi sĩ. Thiên nhiên gắn bó, đồng cảm và sẻ chia với thi nhân mọi xúc cảm cũng như nỗi lòng. Nếu như hoa lá cỏ cây say mê và rạo rực cùng tâm hồn sôi nổi Vội vàng của Xuân Diệu, trăng và đêm chao đảo điên cuồng cùng nỗi đau của Hàn Mặc Tử… và sông trời mây nước trong vũ trụ này sầu “ảo não” với nỗi buồn “vạn kỷ” của tâm hồn Huy Cận. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, sinh động nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn tủi cô đơn của người nghệ sĩ.

Sự bao la rợn ngợp của sông nước

Bài thơ mở ra một bức tranh thiên nhiên Tràng giang rất đẹp, bàng bạc một nét đẹp cổ xưa. Vẫn là đề tài quen thuộc ấy, từ những thi liệu và bút pháp nghệ thuật vốn có trong thơ cổ, nhà thơ của Lửa thiêng đã vẽ nên trên nền trời mây, sông nước mênh mông vô cùng, vô tận những sự vật nhỏ bé, đặc trưng.

Trong quá trình phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, có lẽ điều khiến người đọc ấn tượng hơn cả là những hình ảnh như sóng gợn, thuyền trôi, gió đìu hiu, bến cô liêu, bèo dạt, mây cao, núi bạc, chim nghiêng… gợi nên cái hồn thiên nhiên của thơ ca từ bao đời này. Có lẽ, nếu cứ nhìn người ta vẫn ngỡ đó là không gian của cảnh đẹp tiêu sơ và vắng lặng vốn thấy trong thơ Đường. Thế nhưng, bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện ra trước hết là khung cảnh rợn ngợp bao la của đất trời.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh những con sóng nối tiếp, nối tiếp nhau đến tận chân trời. Sự kéo dài của những cơn sóng như bất tận tạo cảm giác dường như không gian cũng được mở rộng ra. Từ “gợn” được tác giả dùng thật khéo không chỉ gợi được sự chuyển động của sóng nước mà còn gợi được một cảm giác mơ hồ, nhẹ nhàng nhưng day dứt xao xuyến mãi không nguôi như những cơn sóng vẫn miệt mài ngày đêm xô vào bờ. Từ “gợn” ấy ta cũng từng bắt gặp trong ca dao

“Chiều chiều bước xuống ghe buôn

Sóng bao nhiêu gợn dạ em buồn bấy nhiêu”

(Ca dao)

Con sóng của đại dương hay chính là con sóng của tâm hồn đang xao xuyến? Cảm giác mơ hồ ấy ngày càng mạnh mẽ hơn để rồi bộc bạch trực tiếp thành một nỗi niềm “buồn điệp điệp”. Từ láy “điệp điệp” thường được dùng để diễn tả cảnh núi non hùng vĩ hay khung cảnh hùng tráng trong Việt Bắc.

“Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Còn trong câu thơ của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên Tràng giang với “điệp điệp” lại được dùng để chỉ nỗi buồn. Nỗi buồn vốn là một trạng thái cảm xúc vô hình chỉ có thể cảm thấy nhưng trong kết hợp này nỗi buồn ấy lại có hình có khối. Nỗi buồn ấy theo con nước mà tràn đầy. Đứng trước khung cảnh rợn ngợp của thiên nhiên ấy mấy ai mà không thấy buồn mấy ai mà không thấy mình nhỏ bé bất lực.

Bởi lẽ đó mà “con thuyền xuôi mái”. Con thuyền dường như cũng thấy mình bất lực trước dòng chảy. Dù có cố gắng mấy nhưng cuối cùng con thuyền vẫn xuôi theo dòng nước không thể cưỡng lại được. Đó cũng là sự bất lực của con người trước dòng chảy của thời gian. Giữa sự chảy trôi tuyến tính của thời gian, sự xuất hiện của con người chỉ như mây khói thoáng qua.

Phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang, ta thấy từ “song song” bỗng nhiên như vạch ra ranh giới giữa con thuyền và sóng nước gợi ra một cảm giác về sự chia li. Ở hai dòng thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng tinh tế trong cách sử dụng từ láy. “Điệp điệp” đối với “song song”. Không chỉ đối về mặt thanh điệu mà còn đối với nhau về ý. Cả hai cùng gợi ra một không gian rộng lớn chất chứa nỗi buồn nhân thế.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Thuyền và nước vốn gắn liền nhau nhưng trong khổ thơ đầu lại chia lìa nhau. Nếu ở câu thơ trên, thuyền và nước dường như “song song” thì ở dòng thơ này thuyền và nước lại tách rời nhau mỗi nơi mỗi ngả. Sự chia li của cảnh vật hay cũng chính là sự chia li của lòng người.

Nghệ thuật tiểu đối “thuyền về nước lại” càng nhấn mạnh thêm nỗi niềm ấy. Nếu ở trên là “buồn điệp điệp” thì bây giờ lại là “sầu trăm ngả”. Ở trạng thái “sầu” ta bắt gặp một cảm xúc có phần mạnh mẽ, mãnh liệt và ám ảnh hơn “buồn”. Như trong câu thơ của Nguyễn Du “Sầu đông càng lắc càng đầy”.

Nỗi sầu ấy không chất chồng chất đống mà lan tỏa ra khắp “trăm ngả”. “Trăm” là một con số ước lệ chỉ số lượng nhiều. “Trăm ngả” không phải là hướng chảy của dòng nước mà là của nỗi sầu. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở nỗi sầu theo con sóng xô dạt đến tận chân trời xa. Con sóng lòng bất tận ấy ta cũng từng bắt gặp trong vần thơ nhẹ nhàng đằm thắm nhưng không kém phần da diết của Xuân Quỳnh.

“Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Giữa không gian rộng lớn mênh mông, không chỉ có sự xuất hiện nhỏ bé của chiếc thuyền mà bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được điểm tô thêm bằng sự xuất hiện của cành củi khô.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Kết cấu đảo ngược đã nhấn mạnh thêm sự xuất hiện của cành củi. Đây là một hình ảnh độc đáo. Khi nói về sự nhỏ bé của kiếp người, thi nhân thường dùng hình ảnh chiếc thuyền

“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”

(Tự tình III – Hồ Xuân Hương)

Hay như tác giả dân gian so sánh với:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”

Ca dao)

Nhưng Huy Cận lại thể hiện số phận nhỏ bé của con người qua hình ảnh cành củi. Bản thân hình ảnh cành củi đã gợi lên một sự nhỏ bé chỉ đành lênh đênh trôi nổi trên dòng nước không có bến bờ để neo đậu nhưng đó còn là một cành củi khô. Không chỉ cô đơn mà còn là một sự khô héo đến thiếu sức sống.

Lần đầu tiên trong thơ văn xuất hiện hình ảnh cành củi khô tuy đơn sơ nhưng lại giàu sức gợi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ, cô quạnh mênh mông trên sóng nước cũng là hình ảnh con người bơ vơ đến tận cùng giữa vòng xoáy của cuộc đời. Đó cũng là tâm trạng của thi nhân khi đứng trước dòng sông rộng lớn bao la mà nghĩ về cuộc đời.

Bãi bờ quạnh vắng cô đơn

Sự cô đơn không chỉ xuất hiện ở nơi dòng sông rộng lớn mênh mông mà còn xuất hiện ở khung cảnh hai bên bờ sông.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Bức tranh thiên nhiên Tràng giang hiện lên với cảnh vật đa dạng và phong phú. Không gian cũng được mở rộng hơn. Từ không gian hẹp của cồn nhỏ, chợ chiều đến không gian rộng lớn của sông dài trời rộng. Tất cả ngơ như đầy sức sống nhưng cuối cùng lại chìm trong sự tịch liêu. Từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi lên sự buồn bã quạnh vắng.

Nghệ thuật tăng cấp càng khiến cho không gian tịch mịch hơn. Chợ đã tàn người cũng tàn vốn đã buồn chợ chiều nay càng buồn hơn. Âm thanh chợ tàn ấy vang vọng từ xa đến nơi đây. Từ “đâu” vang lên vừa như một âm thanh mơ hồ xa xôi vừa như một là tự hỏi âm thanh ấy từ đâu mà vang vọng lại.

Dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện nhưng không tương vui giòn giã, thúc giục như bản hòa ca của cuộc sống mà im vắng. Nghệ thuật tiểu đối lại một lần nữa phát huy hiệu quả trong kết hợp đặc biệt “nắng xuống trời lên”. Nắng và trời bỗng chốc như tách rời nhau để mở rộng không gian. “Xuống” và “lên” là hai chiều hướng ngược nhau đặt trong cùng vế đối khiến cho không gian như được kéo dãn ra cùng với nỗi niềm của con người.

Có phải vì lẽ đó mà không gian trở nên “sâu chót vót”. Từ láy “chót vót” vốn được dùng để chỉ độ cao nhưng Huy Cận lại dùng từ láy này để gợi mở độ sâu. Phải chăng đây là một dụng ý nghệ thuật của thi nhân. Cách kết hợp ấy đã khiến không gian của bức tranh thiên nhiên Tràng giang như được đẩy ra hết mọi chiều kích của vũ trụ. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Nỗi buồn tựa hồ thấm đẫm trong cả không gian.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn hiện lên với hình ảnh bèo được dùng để diễn tả số phận con người bấp bênh vô định. Và Huy Cận cũng dùng hình ảnh cánh bèo trong thơ mình để một lần nữa nhấn mạnh sự nhỏ bé bấp bênh của đời người. Bèo dạt không phải nương theo cơn sóng để sinh tồn là mặc cho cơn sóng xô đẩy. Không phải là một cánh bèo mà cả là một hàng. Hàng nối hàng nối tiếp nhau nhưng đau lòng hơn đó không là cuộc sống của một kiếp người mà là của một bộ phận không nhỏ thanh niên trong hoàn cảnh xã hội bế tắc đương thời.

Từ láy mênh mông đứng đầu dòng thơ diễn tả được sự rộng lớn bao la của không gian. Điệp từ “không” xuất hiện liên tiếp trong hai dòng thơ gợi sự vắng vẻ cô đơn tuyệt đối.  Thi nhân như từ chối mọi mối quan hệ, dường như tự cô lập mình với cuộc đời xung quanh và cũng đồng thời phủ nhận mối liên kết giữa người với người.

Chính vì không có mối liên kết nào mà con người đứng trước không gian rộng lớn dễ rơi vào trạng thái cô đơn. Từ láy lặng lẽ đứng đầu câu càng tăng thêm sự vắng lặng đến nao lòng của không gian. “Xanh”, “vàng” là những gam màu tươi sáng. Sự xuất hiện này điểm tô thêm những gam màu tươi sáng cho bức tranh thiên nhiên nhưng không xua đi được nỗi cô đơn giá băng của lòng người.

Bóng chiều cùng nỗi nhớ quê

Tiếp đến là khung cảnh thiên nhiên Tràng giang ở hai bên bờ, tầm mắt của thiên nhiên lại hướng lên trên và cũng như phóng tầm nhìn ra xa hơn nơi chân trời để thấy

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

Câu thơ mở đầu bằng từ láy “lớp lớp” diễn tả số lượng nhiều. Những đám mây như chất chồng chất đống vào nhau hết lớp này đến lớp khác. Huy Cận đã sử dụng tinh tế động từ “đùn”. “Đùn” không chỉ diễn tả sự chồng chất của đối tượng mà còn diễn tả được sức sống như đang căng tràn xô đẩy nhau, gợi được vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên – núi mây khổng lồ được vạt nắng chiếu vào tạo thành hình ảnh núi bạc. Ta cũng từng bắt gặp từ đùn ấy trong ý thơ của Nguyễn Trãi

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”

(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)

Giữa đám mây bao la là cánh chim nhỏ bé đối lập với không gian rộng lớn. Thế nhưng, giữa hai đối tượng không có từ liên kết như một khoảng trống giữa câu thơ gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn thể hiện ở cánh chim như đang chở nặng bóng chiều, vì bóng chiều mà cánh chim bỗng trở nên nhỏ bé hơn? Hay vì cánh chim chao lượn như kéo cả bóng chiều? Dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy cánh chim cô đơn giữa một khoảng không mênh mang. Cánh chim bơ vơ lạc lõng hay chính lòng người cũng hoang mang tìm kiếm một điểm tựa.

Một khung cảnh thiên nhiên tráng lệ, hùng vĩ xuất hiện. Trên phông nền thiên nhiên là cả một tấm lòng dành cho đời.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Lòng quê chính là tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương đất nước. Câu thơ gợi lên cảm giác xốn xang, không dứt, trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh. Từ đó cho thấy tình yêu với đất nước quê hương như lan tỏa thấm đãn theo từng con nước. Nỗi nhớ vì vậy mà trở nên da diết hơn.

Thôi Hiệu nhìn thấy làn khói sóng mờ ảo trên sông mà nhớ đến quê nhà. Còn Huy Cận không cần một dấu hiệu gợi nhắc mà tình cảm ấy lại ùa về tràn ngập tâm hồn. Tiếng sóng của không gian biển lớn bao la hay chính là tiếng sóng lòng của nhà thơ, cuồn cuộn không nói nên lời.

Đây chính là nỗi niềm của một người đứng trên quê hương mà lại nhớ về quê hương. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa cũng nỗi cô đơn, sự bất lực trước thực tại. Liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn đất nước lúc bấy giờ ta càng thấu hiểu thêm tâm trạng của thi nhân khi đứng trước cảnh sông dài trời rộng nhưng bến lại là bến bờ quạnh vắng cô liêu.

phân tích bức tranh thiên nhiên tràng giang

Phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang trong thơ Huy Cận

Nhận xét tác phẩm khi phân tích bức tranh thiên nhiên Tràng giang

Bức tranh thiên nhiên Tràng giang được vẽ lên bởi những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nhưng giàu sức gợi. Một thi hứng tưởng chừng quen thuộc trong thơ ca – nỗi buồn nhân thế trước cảnh trời đất cô liêu nhưng trong niềm cảm hứng của Xuân Diệu lại mang một vẻ đẹp rất riêng vừa quen thuộc lại vừa mang màu sắc riêng.

Bài thơ có sự vận dụng kết hợp nhuần nhị giữa bút pháp hiện đại và bút pháp cổ điển. Ẩn trong bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn là bức tranh tâm trạng của thi nhân. Một nỗi buồn da diết nhẹ nhàng nhưng đầy ám ảnh trong từng câu từng chữ. Đó là nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước vũ trụ rộng lớn bao la. Tuy nhiên le lói đâu đó ta vẫn thấy được một sự khát khao giao cảm hòa nhập với cuộc đời của thi nhân.

Bởi vậy bức tranh thiên nhiên Tràng giang nói riêng hay thiên nhiên trong Thơ mới nói chung, dẫu đẹp đến đâu nhưng vẫn đượm buồn. Đó là cái nét yên ắng, tách rời nhau trong những sự vật trên của thiên nhiên nhưng thực chất được gợi dậy từ một tâm hồn buồn trong lòng người thi nhân.

Nhà thơ của tập Lửa thiêng như chở nỗi sầu quá lớn, thậm chí là nỗi sầu của cả một thế hệ nên không gian trong thơ ông cứ nới rộng ra mà lòng người vẫn u uất. Không gian trong bức tranh thiên nhiên Tràng giang càng lớn thì con người càng nhỏ bé, cô đơn và lạc lõng.

Nhưng đằng sau những xúc cảm ấy, người đọc vẫn nhìn thấy những lắng đọng về tâm sự thầm kín của thi nhân. Huy Cận có lẽ phải yêu và gắn bó với mảnh đất quê hương lắm, mới nhìn đâu cũng thấy ám ảnh bởi nỗi buồn. Nhà thơ đứng trên đất quê mình, cảnh đẹp quê mình mà sao đâu đâu cũng thấy vắng lặng, tàn lụi. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang còn được khơi dậy bởi nỗi nhớ nhà ở cuối bài thơ, giúp xóa nhòa cái cảm giác thiếu thốn ngay khi ở trên quê hương.

Kết bài: Khi cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tràng giang, người đọc nhận ra bài thơ cũng chính là tiếng lòng của Huy Cận đối với cuộc đời này. Bức tranh thiên nhiên Tràng giang không tách biệt mà hòa cùng nỗi niềm của con người – một nỗi buồn vạn cổ. Giữa sự nhỏ bé của con người trước dòng đời, thi nhân cũng đã tìm thấy được bến đỗ, điểm tựa – đó chính là quê hương. Bài thơ đã khép nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng mãi như những cơn sóng cứ xô mãi xô mãi vào lòng người đọc.

Dàn ý số 3

Mở bài

Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang

Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhanh đề của bài thơ:

Tác giả Huy Cận (1919 – 2005)

– Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh.

– Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ông học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.

– Ông có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua tập thơ “Lửa thiêng”.

Bài thơ Tràng Giang – tác giả Huy Cận

Thông tin về nhà thơ Huy Cận.

 Thân bài

– Trước Cách mạng, ông được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài.

– Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống.

Hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang

Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hưng sáng tác bài thơ này.

Ý nghĩa nhanh đề và lời đề tựa bài thơ Tràng Giang

– Nhan đề: Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

– Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người.

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang

Về bố cục, nội dung bài Tràng Giang được chia thành 4 phần:

Phần 1 (khổ thơ 1): Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.

Phần2 (khổ 2): Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều.

Phần 3 (khổ 3): Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.

Phần 4 (khổ 4): Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.

Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, các từ láy đặc sắc, đối ý, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ, Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.

Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.

* Hai câu thơ đầu:

– Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề “tràng giang” với cách điệp vần “ang”: gợi sự ngân vọng vang xa cổ kính.

– Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi.

– Hình ảnh:

+ “Sóng”: gợi lên từng đợt như những nỗi buồn chồng chéo trong tâm trạng.

+ “Thuyền” và “nước”: vốn luôn giao hòa nhưng trong câu thơ này lại lạc điệu, li cách.

* Câu thơ thứ ba:

– Hình ảnh: “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối “thuyền về” >< “nước lại”.

– Từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời.

* Câu thơ cuối:

– Hình ảnh độc đáo “củi một cành khô lạc mấy dòng: sự trôi nổi, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng là của số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả.

– Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt cho câu thơ.

Soạn khổ 2 bài Tràng Giang

“Lơ thơ cồn nhỏ gió điều hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Huy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tràng giang mở rộng ra đến bến bờ, trời đất. Từ không gian ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.

* Hai câu thơ đầu:

– Từ ngữ:

+ Khổ thơ bắt đầu bằng một câu thơ với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu”: gợi tả nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo.

+ Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp với âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu:

Âm thanh rất nhỏ, rất khẽ của phiên chợ chiều đã vãn vọng về từ một nơi xa không xác định.

Không có âm thanh tiếng chợ chiều.

Dù là cách nào thì khung cảnh tràng giang đều hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt.

– Hình ảnh: được mở rộng ra so với khổ thơ trước. Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ có mênh mông sông nước mà còn có cồn nhỏ, có gió thổi, có xóm làng, có nắng chiều, có trời cao… nhưng vẫn toát lên vẻ hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như những nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên. Nó càng tô đậm thêm nỗi cơ đơn của con người.

* Hai câu thơ cuối:

– Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” đã vẽ nên một không gian rộng mênh mông, vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích.

– Những tính từ gợi cảm xúc: “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là sáng tạo đặc biệt của Huy Cận.

Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, cao chót vót, rộng mênh mông.

Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng Giang

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đồ ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nhà thơ lại nhìn lại về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

Phân tích khổ 3 bài thơ Tràng Giang.

Thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát của nhà thơ bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

* Hình ảnh:

– Hình ảnh thực “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận.

– Hình ảnh mong ước: con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vũ trụ. Đó là một chuyến đồ ngang qua lại, là một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị.

* Từ ngữ:

Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rợn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Lập dàn ý khổ thơ cuối bài Tràng Giang

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhiều nhà thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

* Hai câu thơ đầu:

– Hình ảnh: thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “búi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ, sà xuống trùm lên mọi cảnh vật.

– Từ ngữ:

+ “đùn”: khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

+ “nghiêng”: bóng hoàng hôn dường như sa suống quá nhanh khiến cho cánh chim phải nghiêng lệch để bay về phía trời xa xăm.

* Hai câu thơ cuối:

– Từ láy “dợn dợn” là một sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.

Kết bài

Bài thơ Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Huy Cận, được viết năm 1939 lấy cảm xúc từ không gian mênh mang của sông Hồng, bài thơ được in trong tập thơ “Lửa thiêng”.

Dàn ý số 4

I. Mở bài

– Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

+ Xuất hiện vào giai đoạn toàn thịnh của thơ Mới, Huy Cận (1919 – 2005), quê ở Hương Sơn – Hà Tĩnh, là một trong những thi sĩ có công đưa phong trào này lên tới đỉnh cao. Ở độ chín nhất, phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển nhất là cổ điển Đường thi với yếu tố thơ Mới, cụ thể hơn là sự hòa hợp giữa nỗi sầu vũ trụ và thế nhân từng chan chứa trong thơ Đường với nỗi cô đơn của cái “tôi” cá nhân, cá thể trong thơ Mới tạo nên nỗi sầu vạn kỉ.

– Bài thơ Tràng giang sáng tác năm 1939, in trong tập Lửa thiêng là bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám được xếp vào hàng kiệt tác.

II. Thân bài

1. Bức tranh thiên nhiên về trời rộng sông dài trong Tràng giang

* Khổ 1: Bức tranh sông nước buồn vắng

– Câu thơ mở đầu đã mở ra một không gian sóng nước mênh mông:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

– Trên bức tranh sông nước ấy hiện lên một hình ảnh quen thuộc:

Con thuyền xuôi mái nước song song

Sự xuất hiện của con thuyền trong thơ văn xưa nay thường chỉ sự lênh đênh trôi dạt.

Ở đây ngoài ý nghĩa ước lệ ấy, con thuyền hiện lên giữa sông nước mênh mang còn gợi ra sự bé nhỏ, đơn độc, lẻ loi. Con thuyền ấy lại đang ở trạng thái “xuôi mái”, nghĩa là còn có thêm tính chất thụ động, phó mặc cho dòng nước đẩy đưa…

– Đến câu thơ thứ ba, nhà thơ tiếp tục những nét vẽ về thuyền và nước nhưng lại đặt trong sự chia lìa: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

– Giữa dòng tràng giang cổ điển mang phong vị Đường thi, nhà thơ đã thả xuống một hình ảnh “sống sít” của hiện thực (chữ dùng của Xuân Diệu) ở câu cuối cùng:

Củi một cành khổ lạc mấy dòng. Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt vào một thế tương phản mạnh mẽ, lạc giữa mấy dòng.

Hình ảnh cành củi khô nhỏ bé được tác giả đặt vào một thế tương phản mạnh mẽ, lạc giữa mấy dòng nước mênh mang vô tận đã càng nhấn mạnh sự vô định, lạc lõng, bơ vơ hết sức tội nghiệp.

* Khổ 2: Bức tranh cồn bãi hoang vắng

– Trên nền không gian dòng sông dài rộng không cùng và cổ kính lâu đời, nổi bật lên hìn ảnh của cồn bãi:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

+ Từ láy “lơ thơ” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự thưa thớt, khiến cồn cát vốn đã nhỏ càng trở nên trống trải giữa mênh mang sông nước.

+ Từ láy “đìu hiu” gợi ra hình ảnh của ngọn gió lạnh vắng, hiu hắt.

– Nhà thơ không chỉ cảm nhận Tràng giang bằng thi giác mà còn cảm nhận bằng thính giác:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

+ Âm thanh của tiếng chợ chiều dù là dấu hiệu của sự sống con người nhưng lại vào lúc đã vãn, gợi ra sự tàn tạ, chứa chất nỗi buồn.

+ Âm thanh ấy lại vẳng đến từ một không gian rất xa, càng trở nên nhỏ nhoi và buồn vắng, gọi cảm giác đây là chốn bị bỏ quên trên trái đất này.

– Đến hai câu thơ cuối, cái nhìn của Huy Cận còn bao quát một phạm vi không gian từ cao đến thấp, từ gần đến xa:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

– Hai cặp tiểu đối “nắng xuống – trời lên”, “sông dài – trời rộng” đã tạo nên một bức tranh không gian ba chiều rất đặc sắc.

– Xuất thần nhất là cụm từ “sâu chót vót”.

– Giữa không gian vũ trụ mênh mang không cùng, nổi bật lên hình ảnh “bến cô liêu” nhỏ bé, lạc lõng đến tội nghiệp.

2. Bức tranh tâm trạng trong Tràng giang

(Bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong Tràng giang được lồng vào nhau, hòa quyện với nhau. Vì vậy khi nêu cảm nhận bức tranh thiên nhiên không thể bỏ qua bức tranh tâm trạng của tác giả, tuy nhiên các em học sinh nên điều chỉnh dung lượng của phần cảm nhận này vừa phải cho phù hợp với đề bài.)

* Khổ 1:

– Ngay từ câu thơ mở đầu, dòng tràng giang hiện lên vừa là một hình ảnh ngoại giới vừa là một hình ảnh tâm giới, mang nặng nỗi niềm của thi nhân “buồn điệp điệp”.

“Buồn điệp điệp” là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng trùng trùng lớp lớp, triền miên, dai dẳng Nỗi buồn ấy đang trải ra cùng với không gian sông nước mênh mang…

– Sự xuất hiện của con thuyền phần nào gợi lên nét tâm lí chán trường của tác giả, của tầng lớp thnah niên tiểu tư sản trong hoàn cảnh đất nước…

– Hình ảnh thuyền nước chia lìa làm cho nỗi buồn trong lòng người tiếp tục lan tỏa rộng thêm và lặn xuống ở chiều sâu “sầu trăm ngả”.

– Hình ảnh cành củi khô phải chăng là một ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời.

* Khổ 2:

– 2 câu đầu là hình ảnh cồn bãi hoàn toàn vắng vẻ, trong cảm giác trống trải, thi nhân đã cố gắng đi tìm dấu hiệu của sự sống con người, của hơi ấm tình người nhưng sự hiện hữu ấy quá nhỏ bé và mờ nhạt nên thi sĩ càng thêm thấm thía sự cô đơn đến cùng cực.

– 2 câu cuối lại nổi bật hình ảnh của “bến cô liêu” bé nhỏ và lạc long giữa sông dài, trời rộng đang mở ra không cùng, đó phải chăng chính là bóng dáng, là nỗi

niềm của chính Huy Cận.

3. Tổng hợp đánh giá

a) Giá trị nội dung:

– Bài thơ đã khắc họa bức tranh mênh mông vô biên và quạnh hiu hoang vắng. Từ thiên nhiên ấy đã làm nổi bật hình ảnh cái tôi là một lữ thứ bơ vơ, cô đơn với nỗi buồn vô tận trước trời nước – biểu hiện của nỗi lòng yêu nước thầm kín thiết tha trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền.

b) Đặc sắc nghệ thuật:

Sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và hiện đại.

III. Kết luận

– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

– Khẳng định lại vị trí tác giả – là một trong những đỉnh cao thơ Mới

Dàn ý số 5

I. MỞ BÀI

   Từ ngàn xưa, thiên nhiên đã trở thành niềm cảm hứng mãnh liệt khơi nguồn sáng tạo cho thi nhân. Ta đã từng gặp cảnh bồng lai trong thơ Lý Bạch, một vùng quê mộc mạc, tĩnh lặng trong thơ Nguyễn Khuyến, cảnh sơn thủy hữu tình trong thơ Nguyễn Trãi. Phong trào Thơ mới (1932-1945) với sự tập hợp của nhiều gương mặt thi nhân, đã mang đến cho người đọc nhiều cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, vây phủ tâm trạng của thi nhân. Đọc Tràng giang của Huy Cận, ta bắt gặp một thiên nhiên kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ khiến ta như “đứng trên thiên văn đài của linh hồn, nhìn cõi bát ngát”.

II. THÂN BÀI

1. Tràng giang là bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển

    Nếu thiên nhiên trong, “Đây mùa thu tới” của Xu&acir

Leave a Comment