Dàn ý Cảm nhận cái tôi ngông trong bài thơ hầu trời của tản đà

Dàn ý số 1 1. Mở Bài – Giới thiệu sơ lược về tác giả và phong cách thơ văn. – Hầu trời là một trong những bài thơ hay nhất của Tản Đà mà …

Dàn ý số 1

1. Mở Bài

– Giới thiệu sơ lược về tác giả và phong cách thơ văn.

– Hầu trời là một trong những bài thơ hay nhất của Tản Đà mà ở đó người ta thấy rõ được cái chất thơ của người thi sĩ, mà nổi bật nhất làm nên giá trị đặc sắc của bài thơ là một cái "ngông" rất Tản Đà.

2. Thân Bài

a. Nền tảng của cái "ngông" trong Hầu trời:

– Giấc mơ được lên hầu trời, đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Nỗi cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi "Hạ giới văn chương rẻ như bèo", nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi lòng của thi sĩ.

b. Tản Đà "ngông" trong lúc đọc thơ cho chư tiên cùng Trời nghe:

– Phong thái ung dung, thích chí và vô cùng tự tin, ông đọc những vần thơ của mình một cách say sưa, mê đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ "Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lí lại văn chơi"

– Thi sĩ tự nâng cao giá trị và tầm vóc bản thân ngang bằng với việc được nhà trời săn sóc, châm trà cho "nhấp giọng" để lấy tinh thần đọc thơ.

– Tự khen thứ văn chương của mình bằng những lời mà đôi lúc tôi nghĩ là có phần hơi tự phụ, kiêu căng một chút "Văn dài hơi tốt ran cung mây", đắc chí vì thần tiên cũng phải tấm tắc khen "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay".

=> Xóa nhòa đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi.

– Tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng văn chương mà mình có được, vô cùng tâm đắc với thành tựu của mình chỉ muốn sao để người ta phải công nhận và thán phục.

– Tự tin, vui vẻ khoe rằng "Nhờ Trời văn con còn bán được", ngầm chứng minh rằng thơ văn của ông có sức hút mạnh mẽ vô cùng, bởi trong thời cuộc rối ren mà người ta vẫn muốn đọc sáng tác của Tản Đà.

c. Cái "ngông" trong khi trò chuyện cùng Trời:

– Lối nói của ông không hề có sự e dè sợ hãi, mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực, xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái.

– Xem chư tiên và Trời là những người bạn tâm giao, kể lể về cuộc sống nghèo khó, khiến những nhà trí thức phải nhiều phen khốn đốn.

– Cho mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội "ngông", rồi lại được Trời giải thích rằng sai Tản Đà xuống làm việc "thiên lương".

– Vinh hạnh được thiên đình ưu ái cho xe Khiên Ngưu đưa tiễn, chúng tiên thì lũ lượt tiễn đưa.

– Cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái "ngông" của Tản Đà nổi bật hơn

3. Kết Bài

– Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật của tác phẩm hoặc nêu cảm nghĩ cá nhân.

Dàn ý số 2

1. Mở Bài

Người ta nói nhiều về Tản Đà vào những năm ấy, thời khắc chuyển giao của văn chương truyền thống và văn chương hiện đại. Đó là nhà thơ của hai thời đại, “dấu gạch nối giữa hai thế kỉ”… bởi nhiều lý do. Ông tiêu biểu cho kiểu nhà nho tài tử, là người đầu tiên mang văn chương ra bán phố phường. Đó là những đóng góp mới mẻ của ông về hình thức thơ, diện mạo thơ vừa lãng mạn vừa cảm thương, vừa mới mẻ vừa giữ cốt cách hồn thơ dân tộc. Nhưng có lẽ không ai phủ nhận được, điều mà Tản Đà ghi dấu ấn trong lòng độc giả lại chính là cá tính trong thơ, còn gọi là cái tôi ngông mà ông đã bộc lộ. Và một trong những thi phẩm thể hiện được đó, là Hầu Trời. Bài thơ được in trong tập Còn chơi, năm 1921 thể hiện được đậm nét cái tôi ngông của nhà thơ.

2. Thân Bài

   Nét ngông trong thơ vốn không phải là một điều xa lạ. Nhắc đến cá tính này phải kể đến Nguyễn Công Trứ trước đó, và lớp sau này là Nguyễn Tuân. Và đến đây, chúng ta có Tản Đà. Khi những cốt cách nghệ sĩ tài hoa này bộc lộ cái ngông là khi họ ý thức rất cao về tài năng và giá trị của bản thân mình trước cuộc đời. Họ bộc lộ điều đó để tự tin, để hãnh diện nhưng cũng là để thách thức trước cuộc đời. Và từ đó họ tạo cho mình một phong cách, một cá tính riêng, độc đáo không pha lẫn được. Tản Đà trong Hầu Trời đã có một cái tôi ngông độc đáo như thế.

 Cái tôi ngông trước hết được thể hiện ở việc thi nhân dám lên tận trời để khẳng định tài năng. Mà đầu tiên phải kể đến màn vào đề bài thơ đầy khéo léo và có duyên:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

   Thơ Tản Đà hay thơ ca cùng thời cũng có nói về việc lên tiên, để thoát li khởi cuộc sống “trần thế em nay chán nửa rồi”. Nhưng Tản Đà thoát li lên trời lần này là để đọc thơ, ngâm văn. Chốn thiên môn đế khuyết ấy tưởng chỉ để rong chơi, hưởng thụ, nhưng nhà thơ đã tự hóa thân mình thành một thi sĩ biểu diễn tài năng. Mà cái cớ lên trời ấy người ta nghe tưởng chừng phi lý nhưng rồi cũng thấy rất tự nhiên và đáng tin. Chỉ là một đêm mất ngủ, uống trà, chơi trăng và ngâm văn, ấy vậy mà tiếng ngâm vang cả đến sông Ngân Hà khiến Trời phải sai người xuống đón lên để đọc cho nghe. Rõ ràng là một câu chuyện không có thật, quá lạ lùng nhưng cái cách dẫn dắt, trình bày lại khiến người ta thấy thú vị, hóm hỉnh. Phải bằng cái tôi cá tính như Tản Đà mới nghĩ ra được một câu chuyện như thế.

   Không bỏ lỡ cơ hội được lên trời đọc thơ, thi sĩ đã hào hứng, phấn khởi mà “quảng cáo” tài năng: văn vần, văn xuôi, văn thuyết lí, văn chơi và cả hàng loạt các sáng tác đã in cả rồi:

    Hai quyển Khối tình văn thuyết lí

    Hai Khối tình con là văn chơi

    Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết

    Đài gương, Lên sáu văn vị đời

    Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch

    Đến quyển Lên tám nay là mười.

   Chưa thấy ai khéo léo, tài tình mà cũng đầy ngông nghênh như Tản Đà qua cách đọc thơ cho Trời nghe như vậy. Cái tôi cá tính của ông đã bộc lộ một cách rất tự nhiên mà không phải ai cũng làm được và dám làm. Tài năng được thế gian công nhận đã là một việc làm vô cùng khó, vậy mà giờ đây lên tới chốn thiên môn đế khuyết để khẳng định thì không thể không nói là rất ngông. Chỉ cần nhìn biểu hiện của các chư tiên và lời khen nức lòng của Trời cũng đủ thấy cách bộc lộ tài năng của Tản Đà có nét độc đáo như thế nào.

    Văn dài hơi tốt ran cung mây!

    Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay

    Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

    Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

    Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

    Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.

    …

    Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

 

    Văn trần như thế chắc có ít!

    Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

    Êm như gió thoảng, tinh như sương!

    Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

   Táo bạo hơn, thi nhân còn được động viên: Anh gánh lên đây bán chợ Trời. Trong âm hưởng của sự say mê, hứng khởi, người ta không thấy một Tản Đà đang phô diễn, khoe khoang tài năng mà đó chỉ là một dịp để người nghệ sĩ thăng hoa trên tài năng của chính mình. Phải ý thức về tài năng cao độ, phải tự hào, kiêu hãnh về giá trị bản thân đến mức như thế nào mới dám bộc lộ đầy táo bạo như thế. Cái đó người ta gọi là ngông, cũng chỉ có Tản Đà mới ngông đầy nghệ sĩ và tài hoa như thế.

  Nhưng nhịp điệu của cái ngông không bay bổng theo chiều đi lên như người đọc tưởng mà nó có độ lắng sâu dưới màn tái hiện bức tranh cuộc sống của người nghệ sĩ trước thời kì khốn khó của kẻ nặng mệnh văn chương. Trong màn đối thoại với Trời, Tản Đà đã giúp người đọc hình dung ra điều đó, cũng là cách ông bộc lộ cái tôi ngông khác của mình trong bài thơ. Nhà thơ chẳng ngại mà giấu giếm, đã giới thiệu một cách đầy tự tin:

    -“Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa

    Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

    Quê ở Á châu về Địa cầu

    Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”

   Ông thẳng thừng chia sẻ về cuộc sống đầy vất vả, nghèo khó của mình dưới trần gian:

    -“Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó

    Trần gian thước đất cũng không có

    Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều

    Vốn liếng còn một bụng văn đó.

    Giấy người mực người thuê người in

    Mướn cửa hàng người bán phường phố.

    Văn chương hạ giới rẻ như bè

    Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

    Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều

    Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”

   Việc tâu bày này không phải là để than nghèo kể khổ, không mong được ban phước lộc ân để có giàu sang phú quý. Mà mục đích lên hầu trời là để được tri âm. Có thể thấy đằng sau một Tản Đà hào hứng, tự tán dương là một người đầy cô đơn. Ông phải lên tới trời để tìm kiếm sự đồng cảm, khát khao được thừa nhận tài năng. Vì vậy, kể về cuộc sống nghèo khó, thậm chí cùng cực kia là cách để nhà thơ bộc lộ rõ hơn sự thấu hiểu về nghề văn bạc bẽo, nghèo nàn mà mình đang phải bám víu. Cách tìm kiếm ấy trong lời thơ chất chứa đầy tâm sự và cảm hứng tự sự cũng là một cách ngông trong cái tôi của Tản Đà.

   Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái ngông của Tản Đà còn thể hiện ở thái độ khác thường khi khẳng định bản thân mình. Trong cuộc đối thoại với Trời, nhà thơ cho rằng kẻ tên Nguyễn Khắc Hiếu bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Hóa ra, thi nhân vốn là một vị trích tiên, là người nhà trời. Dẫu Trời có khéo léo sửa lại không phải là đày mà là giao cho sứ mệnh “thiên lương” của nhân loại để xuống thuật cùng đời hay thì cái ngông vẫn không giấu đi được. Bởi cái ngông này đã hóa thành một ý thức đối lập với xã hội đương thời. Làm sao thi sĩ gánh vác được điều đó, khi mà xã hội lúc bấy giờ đẩy những người như ông vào cảnh khốn khó. Cho nên ngầm trong ý đó, Tản Đà muốn đề cập tới khát vọng mà ông đã từng theo đuổi, đó chính là cải cách xã hội. Nhưng chúng ta đã nhận ra cái lực bất tòng tâm của thi nhân. Bởi vậy cái tôi ngông, ngạo nghễ, thách thức với đời mà có phần vẫn bất lực. Đó là xu thế chung trong tâm lý của giới văn sĩ lúc bấy giờ.

  Nếu đặt cái nhìn về tính cách ngông trong văn học thì Nguyễn Công Trứ đã quá ấn tượng với người đọc về một con người tài năng độc đáo ngay cả khi đương chức hay về hưu. Về sau Nguyễn Tuân cũng mang cái ngông khác biệt để tạo nên một quan niệm thẩm mĩ độc đáo. Riêng với Tản Đà cái ngông của ông từ ngoài đời đến văn chương, từ xê dịch, thơ ca đến tình duyên. Nhưng cái ngông của Tản Đà bộc lộ một thái độ khát khao rất mạnh mẽ với cuộc đời, mong mỏi niềm tri âm và cả sự thay đổi về xã hội. Hầu Trời đã thâu tóm hết thảy cái ngông ấy. Bởi vậy thi phẩm xứng đáng tiêu biểu cho phong cách độc đáo, ngông tài hoa của thi nhân.

   Nhưng không thể phủ nhận cái ngông trong Hầu Trời không chỉ ở nội dung mà cả phương diện nghệ thuật. Lựa chọn một thể thơ thất ngôn quen thuộc, nhưng nhà thơ lại viết nó ở cấp độ trường thiên. Hơn nữa kết cấu các khổ không phải 4 dòng một khổ như thông thường mà có đoạn lên đến 6, 10, 12 dòng. Chính vì sự phóng khoáng, tự do về thể thơ như vậy đã giúp cho nhà thơ thỏa chí bộc lộ cái tôi của mình. Thêm nữa còn phải kể đến một cấu tứ đặc biệt trong bài chính là mạch trữ tình không tạo ra bởi cảm xúc mà bởi chất tự sự. Đúng ra bài thơ là một câu chuyện khá rõ ràng theo kết cấu thời gian. Lại có thêm một tình huống bất ngờ tạo nên một câu chuyện rất hấp dẫn, hóm hỉnh và có duyên. Ngôn ngữ thơ không quá trau chuốt, cầu kì nhưng pha trộn giữa sự có chọn lọc và cả nét bình dị, nôm na. Bởi vậy, ngay cả tạo nên một bài khá dài nhưng vẫn tạo dấu ấn đặc biệt như thế. Cũng là cách mà Tản Đà khẳng định cái tôi ngông độc đáo của mình.

3. Kết Bài

   Nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng: “Tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. Lời nhận định đó chỉ khác ở chỗ là thay vào đó bằng một chữ ngông. Bản lĩnh của thi nhân, cái tôi độc đáo, mới mẻ là những gì Tản Đà góp mặt vào thơ ca thời kì đó. Nhưng chắc chắn với Hầu Trời ông đã làm cho bản ngã của mình được khẳng định một cách tài hoa như thế.

Dàn ý số 3

1. Mở Bài

Xuân Diệu đã từng nhận xét Tản Đà: “có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám có một cái tôi”. Đây quả là một nhận xét xác đáng về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi ngông ngạo, hơn đời của Tản Đà. Cái tôi “ngông” là một nét đặc sắc, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. Và được thể hiện đặc biệt rõ nét qua tác phẩm Hầu trời.

2. Thân Bài

    Ngông là khái niệm để chỉ tính cách ngang tàng, bất cần. Nhưng đối với kẻ sĩ ngông chính là để thể hiện một cái tôi cao ngạo, khác người. Bởi họ tự tin vào tài năng, nhân cách của bản thân, họ dám đem tài năng để khẳng định với đời.

    Ngông vốn không phải là khái niệm xa lạ trong văn học, ta có thể kể đến những tác giả tiêu biểu cho lối sống đó như cái tôi rất ngông của Nguyễn Công Trứ:

    Vũ trụ nội mạc phi phận sự

    Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

    Hay Tú Xương:

    Ông trông lên bảng thấy tên ông

    Ông tớp rượu vào ông nói ngông

    Trên bảng năm ba thầy cử đội

    Bốn kì mười bảy cái ưu thông.

    Đến Tản Đà, cái ngông tiếp tục được phát triển và được khẳng định một cách mạnh mẽ. Cái ngông trong bài Hầu trời trước hết được thể hiện trong hành động muốn được lên trời, bởi ông cho rằng chỉ có Trời mới đánh giá đúng tài năng của mình:

    Đêm qua chẳng biết có hay không,

    Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

    Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!

    Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

    Cách vào đề của ông thật dí dỏm, hài hước, ông một mực khẳng định việc mình được lên tiên là thật, không hoảng hốt, không mơ mòng, cái thật ở cả phách, hồn, thân thể. Cuộc vượt thoát trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Đồng thời ông cũng lí giải lí do mình lên tiên: “Trời nghẹ hạ giới ai ngâm nga/Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà/ Làm trời mất ngủ, trời đương mắng/ Có hay lên đọc, Trời nghe qua”. Câu thơ như một lời khẳng định tài năng của bản thân vọng vang cả trời đất, khiến cả Trời cũng phải sai người xuống mời ông lên đọc. Đây là biểu hiện thứ nhất trong cái tôi ngông ngạo của Tản Đà.

    Không dừng lại ở đó, ý thức khẳng định cái tôi được thể hiện rõ hơn ở đoạn ông tự khen chính mình:

    “Đọc hết văn vần lại văn xuôi

    Hết văn thuyết lý lại văn chơi”

    Tài năng hơn người khiến Tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cái tôi cá nhân, những tác phẩm của ông đều được liệt kê với những đặc điểm nổi bật của chúng: Khối tình con, Thần tiên, Giấc mông, … Rồi ông tự khen mình “Văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không phải là lần đầu tiên Tản Đà tự khen ngợi mình, trong bài Tự trào ông đã viết: “Vùng đất Sơn Tây nảy một ông/ Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng/ Sông Đà núi Tản ai hun đúc/ Bút thanh câu thần sớm vãi vung”. Cho thấy ý thức cao độ về cái tôi của mình trong thơ ông.

    Nghe những lời nhận xét ấy, trời cũng phải bật buồn cười và phê cho “văn thật tuyệt” “văn trời được thế chắc có ít”. Các chư tiên thì khen ngợi bằng những lợi khen ngợi không tiếc lời: lời văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ như sương, êm như gió,… Và họ tranh nhau ao ước, dặn: “Anh ghánh lên đây bán chợ Trời”. Quả thật chỉ có ở nơi tiên giới này Tản Đà mới tìm được người bạn tri âm tri kỉ với mình, bởi dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít được trân trọng. Còn ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, bởi chỉ có những người như họ mới cảm nhận được hết tài năng của ông

    Đã có mấy ai trong văn học, dám xưng họ tên đủ đầy trong tác phẩm của mình, ấy vậy mà có một thi nhân tên Tản Đà, khi hầu trời đã dám làm việc đó: “Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn/ Quê ở Á Châu và Địa cầu/ Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Một nhân cách hơn người, một bản lĩnh khác thường ở con người tài năng và nhân cách này. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về bản thân, quê quán, và ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. Cách nói thật trịnh trọng, đầy khẳng định về tài năng, nhân cách của chính mình

    Đồng thời Tản Đà cũng tự nhận mình là một Trích tiên bị đầy xuống trần gian vì tôi ngông, nhưng ngay sau đó ông đã khẳng định: “Trời rằng: không phải là Trời đày/ Trời định sai con một việc này/ Là việc “thiên lương” của nhân loại”/ “Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Ông xuống trần gian để thực hiện một sứ mệnh cao cả, thực hành thiên lương, đem lại đời sống tốt đẹp cho con người. Nhưng đây quả là một nhiệm vụ khó khăn, ở giữa trốn trần gian đầy hiểm ác, bon chen, giữ được thiên lương và truyền bá thiên lương quả thực không hề đơn giản. Việc ông tự nguyện gánh vác nhiệm vụ Trời trao cho thấy nhân cách cao đẹp của thi nhân.

    Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ

    Dám xin không phụ Trời trông mong

3. Kết Bài

    Thể thơ thất ngôn trường thiên, đã cho phép tác giả thể hiện một cách thoải mái cảm xúc của bản thân. Bài thơ Hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của Tản Đà trước cuộc đời. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân, ông thời cũng ý thức hiện thực xã hội thối nát lúc bấy giờ. Qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.

Dàn ý số 4

1. Mở Bài

Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Ông là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi.

2. Thân Bài

Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Và Hầu Trời là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.

Như Hoài Thanh đã nói “Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người “dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kì đương sắp sửa” (Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo “túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là Hầu Trời được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.

Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền văn học chung.

Tản Đà – nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện trong Hầu Trời là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.

Chất ngông thương được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để “đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong Hầu Trời đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.

Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.

Đêm qua chẳng biết có hay không

Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng

Thật hồn! Thật phách! Thật than thể

Thật được lên tiên sướng lạ lùng!

Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân:

Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc

Đọc hết văn vần sang văn xuôi

Hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:

Bẩm con không dám man cửa Trời

Những áng văn con in cả rồi

Hai quyển Khối tình văn thuyết lí

Hai Khối tình con là văn chơi

Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết

Đài gương, Lên sáu văn vị đời

Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch

Đến quyển Lên tám nay là mười

Nhờ Trời văn con còn bán được

Chửa biết con in ra mấy mươi?

Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:

Văn dài hơi tốt ran cung mây!

Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.

Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

Đọc xong một bài cùng vỗ tay.”

“Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

Khí văn hung mạnh như mây chuyển!

Êm như gió thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dường như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:

Nhờ Trời văn con còn bán được

Vốn liếng còn một bụng văn đó

Thật ngang tàng khi thi sĩ muốn “gánh văn” lên Trời để bán.

Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:

-”Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.

 

Qua bài thơ Hầu Trời không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hoà với cuộc đời:

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

Kiếm được đồng lãi thực rất khó

Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều

Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà thơ.

Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó “tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:

Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á châu về Địa Cầu

Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.

Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, tên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên- tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.

Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại khẳng định rất “ngông”, của kẻ vốn đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận “khác thường của mình”.

Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân loại”, “Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc “thiên lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang bị mai một của con người:

Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ

Dám xin không phụ Trời trông mong

Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.

Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định, tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân – thiện – mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.

Kế thừa nét ngông của truyền thống, song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tản Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.

Bài thơ Hầu Trời đã kết tinh cái tôi của Tản Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội dung, những nét độc đáo và mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có lẽ Hầu Trời có vẻ quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.

Bên cạnh đó, Hầu Trời còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt ra khỏi quy phạm nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.

3. Kết Bài

Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hoà nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tản Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.

Dàn ý số 5

1. Mở Bài

Hầu Trời là bài thơ tiêu biểu cho lối thơ phóng túng, cách thể hiện “cái tôi” độc đáo của Tản Đà. Khi in lần đầu trong tập Còn chơi (Tản Đà tự xuất bản, 1921), bài thơ có tất cả 124 câu. Sau này, khi in lại trong các tuyển tập, bài thơ đã được sửa chữa và thay đổi một số từ. Văn bản trong SGK chỉ chọn học 74 câu, các câu khác in chữ nhỏ để giữ nguyên diện mạo bài thơ.

2. Thân Bài

1. Cảm hứng mới trong môtíp nghệ thuật cũ

Lên trời là môtíp nghệ thuật phổ biến trong văn học dân gian và văn thơ trung đại, người xưa thường mượn cõi tiên để gửi gắm những ước mơ không thực hiện được nơi trần thế. Tản Đà cũng “lên tiên”, nhưng khác với người xưa, thi nhân không khoanh tay chờ đợi những phép lạ của cõi tiên làm biến đổi đời mình mà chủ động đem “cái tôi” đầy cá tính của mình lên quấy động cả cuộc sông nơi tiên giới. Cõi tiên của Tản Đà vì thế rất gần với coi trần tục lụy, thi nhân có thể đàm đạo thơ ca với Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương… nói chuyện thế sự với cụ Khổng Tử, Lư Thoa… gặp gỡ người đẹp Tây Thi, Dương Quý Phi, Chiêu Quân,… Tản Đà tìm đến cõi tiên để gặp người tri kỉ dốc bầu tâm sự, để khẳng định “cái tôi” đầy tài năng và phẩm giá của mình. Đi xa hơn nữa, thi nhân còn tự cho mình là người của cõi trời bị đẩy xuống hạ giới vì tội “ngông”. Một loạt bài thơ của Tản Đà đã ra đời từ nguồn cảm hứng bay bổng đó như: Muốn làm thằng Cuội, Trời nắng, Tống biệt… mà hầu Trời là một thi phẩm tiêu biểu, trong đó “cái tôi” của nhà thơ tự do bộc lộ.

2.    Một “cái tôi” đầy tài năng được thừa nhận ở cõi thiên đình

Mượn cớ đang đêm đọc thơ làm Trời mất ngủ, bị tiên nữ điệu lên cho Trời hỏi tội, thi nhân đã phô diễn tài năng văn chương của mình: trước hết là khả năng sáng tạo trên khắp các thể tài (Đọc hết văn vần sang văn xuôi – Hết văn lí thuyết lại văn chơi; “Thần tiên”, “Giấc mộng” văn tiểu thuyết – “Đài gương”, “Lên sáu” văn vị đời – Quyển “Đàn bà Tàu” lối văn dịch,..) sau nữa đây mới là cơ bản, là cái khí lực của văn thơ ẩn trong một hình thức vẹn toàn (Nhời văn chuốt đẹp như sao băng! – Khí văn hùng mạnh như mây chuyển! – Êm như gió thoảng, tinh như sương! – Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!). Chỉ bằng mấy lời dặn dò của chư tiên (Chư tiên ao ước tranh nhau dặn – “Anh gánh lên đây bán chợ trời!) cùng sự phán xét của Trời (Văn đã giàu thay, lại lắm lối;… văn thật tuyệt – Văn trần được thế chắc có ít!) mà tài năng xuất chúng của thi nhân đã được khẳng định một cách tuyệt đối. Cõi trần không có người tri kỉ đánh giá được tài năng đích thực thì thi nhân lên tận thiên đình để cho Trời “xếp hạng”. Cái “ngông” của Tản Đà chính là ở chỗ đó, và đây cũng là một giấc mơ hết sức lãng mạn, độc đáo của nhà thơ.

3.    Một “cái tôi” có phẩm giá hơn người, được trao một sứ mệnh cao cả.

Tự nhận mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông” đã là một kiểu “tự phong” rất khác đời thi nhân còn muốn khẳng định “cái tôi” của mình ở môt mức cao hơn – ông chính là người được Trời chọn để gánh vác một sứ mệnh thiêng liêng, cao cả:

 

Trời rằng: “Không phải là Trời đày,

Trời định sai con một việc này

 Là việc “thiên lương” của nhân loại

Cho con xuống thuật cùng đời hay”

Một lần nữa, thi nhân lại mượn lời trời để đề cao phẩm giá của mình: Người được Trời tin cẩn giao trọng trách quảng bá “thiên lương” nơi hạ giới ắt hẳn phải là người có phẩm chất hơn đời. Trong sự nhún mình “biết làm có được mà dám theo” của thi nhân, có thề nhận ra nỗi cơ cực của những người trót lấy nghiệp văn chương làm kế sinh nhai thời đó (Văn chương hạ giới rè như bèo… Một cây che chống bốn năm chiều). Câu thơ “Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!” vừa là lời “động viên” của Trời vừa là lời tự nhủ mang dũng khí của một người dám đứng ra gánh vác sứ mệnh cao cả của văn chương, bất chấp những khó khăn, gian khổ. Ớ đây, Tản Đà đã thể hiện một “cái tôi” tự tin và đầy bản lĩnh.

Hư cấu nên câu chuyện Hầu Trời, Tản Đà đem vào thơ một nguồn cảm hứng thật sảng khoái và mới mẻ. Nhà thơ vừa bộc lộ được “cái tôi” đầy tài năng và phẩm giá cúa mình vừa bày tỏ ý muôn thực thi sứ mạng của người cầm bút đối với xã hội đương thời, làm hưng thịnh đạo “thiên lương” đang ngày càng mai một. Do là nội dung cơ bản của câu chuyện Hầu Trời, cũng là ý tưởng lãng mạn của thi nhân gửi vào giấc mộng.

3. Kết Bài

-1 Hầu Trời  tuy vẫn dùng thể thơ thất ngôn cổ điển nhưng Tản Đà đã có ý mở rộng biên độ thành “trường thiên”. Khi in bài thơ lần đầu, nhà thơ ghi dưới tên bài là “Điệu thu thuỷ” và chú thích ở dưới: “Thu thuỷ” là nước mùa thu, mùa thu nước lũ chảy thật mạnh, gỗ, bương, củi, sậy cùng trôi, không có kỉ luật nào (Còn chơi). Đúng như lời giải thích về điệu thơ, toàn bộ bài thơ chảy trôi theo một mạch thơ vô cùng phóng túng, có cảm giác không hề bị câu thúc bởi vần điệu và niêm luật; ngôn ngữ và hình ảnh cứ thế tuôn trào một cách tự nhiên theo dòng cảm xúc. Chính nguồn cảm hứng mới mẻ của Tản Đà đã kéo theo sự biến đổi tự bên trong của thể thơ, làm điệu thơ mang một sức sống mới.

2. Giọng kể dí dỏm, hài hước, phá vỡ sự trang nghiêm của thơ cổ điển; ngôn ngữ sông động, đem vào thơ một hơi thở của đời sống thông tục rất thú vị. Bài thơ hấp dẫn ngay từ những lời mở đầu: Đêm qua chẳng biết có hay không… -Thật được lên tiên – sướng lạ lùng. Sự dí dỏm nằm trong những câu thơ kiểu văn nói: Đương cơn đắc ý đọc đã thích – Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi; Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!; … trong những lời đối thoại nôm na mà hóm hỉnh: Nhờ Trời văn con còn bán được – Chửa biết con in ra mấy mươi?’, Chư tiên ao ước tranh nhau dặn – “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!",… Giọng thơ ở đây biểu lộ sự vui vẻ thư thái ung dung của thi nhân. Vừa là người kể vừa là nhân vật chính trong câu chuyện, nhà thơ nhập vai rất thoải mái, nói năng trào lộng như ở nhà tạo cảm giác chốn thiên đình là nơi quen thuộc, người tiên hầu như cũng là chỗ bè bạn của nhà thơ. Đó cũng là một trong những biểu hiện của cái “ngông” Tản Đà.

Leave a Comment