Dàn ý Cảm nhận hai khổ cuối bài thơ Tràng giang

Dàn ý số 1 Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua …

Dàn ý số 1

Khái quát tác giả, hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang

Trước khi đi vào dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang, chúng ta hãy cùng khái quát qua thông tin về tác giả, hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa nhanh đề của bài thơ:

Tác giả Huy Cận (1919 – 2005)

– Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh.

– Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ông học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông.

– Ông có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua tập thơ “Lửa thiêng”.

Bài thơ Tràng Giang – tác giả Huy Cận

Thông tin về nhà thơ Huy Cận.

– Trước Cách mạng, ông được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ông có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài.

 Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống.

Hoàn cảnh sáng tác Tràng Giang

Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng ngắm cảnh. Chính cái không gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hưng sáng tác bài thơ này.

Ý nghĩa nhanh đề và lời đề tựa bài thơ Tràng Giang

– Nhan đề: Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

– Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người.

Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Tràng Giang

Về bố cục, nội dung bài Tràng Giang được chia thành 4 phần:

Phần 1 (khổ thơ 1): Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận.

Phần 2 (khổ 2): Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều.

Phần 3 (khổ 3): Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.

Phần 4 (khổ 4): Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.

Dàn ý phân tích khổ 1 Tràng Giang

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, các từ láy đặc sắc, đối ý, hình ảnh độc đáo, chi tiết mới mẻ, Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.

Phân tích bài thơ Tràng Giang – Huy Cận

Huy Cận đã phác họa nên một nỗi buồn bơ vơ, bế tắc của lòng người trước không gian sông nước mênh mông, rợn ngợp, hoang vắng.

* Hai câu thơ đầu:

– Câu thơ mở đầu nhắc lại nhan đề “tràng giang” với cách điệp vần “ang”: gợi sự ngân vọng vang xa cổ kính.

– Từ láy “điệp điệp”, “song song”: Khung cảnh sông nước gắn với tâm trạng buồn da diết, khôn nguôi.

– Hình ảnh:

+ “Sóng”: gợi lên từng đợt như những nỗi buồn chồng chéo trong tâm trạng.

+ “Thuyền” và “nước”: vốn luôn giao hòa nhưng trong câu thơ này lại lạc điệu, li cách.

* Câu thơ thứ ba:

– Hình ảnh: “thuyền” và “nước” lặp lại từ câu thơ trên nhưng vẫn không hề có sự đồng điệu mà còn tan tác hơn với nghệ thuật đối “thuyền về” >< “nước lại”.

– Từ ngữ trực tiếp miêu tả cảm xúc “sầu trăm ngả”: nỗi buồn từ trong lòng người lan rộng ra khắp cảnh vật, đất trời.

* Câu thơ cuối:

– Hình ảnh độc đáo “củi một cành khô lạc mấy dòng: sự trôi nổi, bấp bênh của thân phận cỏ cây hay cũng là của số kiếp con người giữa cuộc đời sóng gió trăm ngả.

– Nghệ thuật đảo ngữ và đối lập: tăng sức gợi hình, gợi cảm và giá trị biểu đạt cho câu thơ.

Soạn khổ 2 bài Tràng Giang

“Lơ thơ cồn nhỏ gió điều hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Huy Cận đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên tràng giang mở rộng ra đến bến bờ, trời đất. Từ không gian ấy, ta nhận ra sự ám ảnh về cái vô biên và sự trống trải tuyệt đối của cảnh vật và lòng người.

* Hai câu thơ đầu:

– Từ ngữ:

+ Khổ thơ bắt đầu bằng một câu thơ với hai từ láy gợi hình “lơ thơ” và “đìu hiu”: gợi tả nỗi buồn và sự nhỏ nhoi, thưa thớt, lạnh lẽo.

+ Từ phiếm chỉ “đâu” kết hợp với âm thanh “tiếng làng xa” có hai cách hiểu:

Âm thanh rất nhỏ, rất khẽ của phiên chợ chiều đã vãn vọng về từ một nơi xa không xác định.

Không có âm thanh tiếng chợ chiều.

Dù là cách nào thì khung cảnh tràng giang đều hiện lên mênh mông, vắng vẻ, hiu hắt.

– Hình ảnh: được mở rộng ra so với khổ thơ trước. Bức tranh thiên nhiên ở đây không chỉ có mênh mông sông nước mà còn có cồn nhỏ, có gió thổi, có xóm làng, có nắng chiều, có trời cao… nhưng vẫn toát lên vẻ hiu quạnh, lặng ngắt. Những dấu hiệu của cuộc sống xuất hiện như những nốt nhạc cao hiếm hoi giữa bản đàn trầm buồn triền miên. Nó càng tô đậm thêm nỗi cơ đơn của con người.

* Hai câu thơ cuối:

– Hình ảnh “nắng xuống”, “trời lên”, “sông dài”, “trời rộng”, “bến cô liêu” đã vẽ nên một không gian rộng mênh mông, vô cùng, vô tận ở mọi sự vật, mọi chiều kích.

– Những tính từ gợi cảm xúc: “sâu chót vót”, “bến cô liêu” là sáng tạo đặc biệt của Huy Cận.

Không gian mở rộng ra ba chiều: sâu thăm thẳm, cao chót vót, rộng mênh mông.

Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng Giang

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đồ ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Nhà thơ lại nhìn lại về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

Phân tích khổ 3 bài thơ Tràng Giang.

Thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát của nhà thơ bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu và lòng người lại rợn lên những lẻ loi, trống vắng.

* Hình ảnh:

– Hình ảnh thực “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: những cánh bèo trôi nổi, phiêu dạt trên sông nước gây ám ảnh về số phận lạc lõng, cô đơn, vô định của con người trên dòng đời vô tận.

– Hình ảnh mong ước: con người mong muốn tìm tới những hình ảnh gần gũi, thân quen với cuộc sống trước cái vô cùng của vũ trụ. Đó là một chuyến đồ ngang qua lại, là một chiếc cầu nối đôi bờ xa cách. Mong ước có phần nhỏ bé, bình dị.

* Từ ngữ:

Phó từ phủ định “không” lặp đi lặp lại gắn với những hình ảnh mong ước của tác giả khiến cho những mong ước ấy dẫu bình dị, bé nhỏ cũng trở nên vô vọng. Cảnh vật lại rơi vào hoang vắng, lạnh lẽo. Con người lại rợn ngợp, lẻ loi giữa “bờ xanh tiếp bãi vàng”.

Lập dàn ý khổ thơ cuối bài Tràng Giang

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Bài thơ mở ra bằng tiếng sóng trên sông nước, kết thúc bằng tiếng sóng trong tâm hồn con người. Cảnh vật vẫn đìu hiu và quạnh vắng. Con người bởi thế mà trở trăn với bao nỗi niềm. Đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhiều nhà thơ mới lúc bấy giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

* Hai câu thơ đầu:

– Hình ảnh: thiên nhiên hùng vĩ với “mây cao” xếp thành nhiều tầng tạo nên liên tưởng về dãy “búi bạc” khổng lồ, với cánh chim nhỏ cô đơn, nhỏ bé và bóng chiều bao phủ, sà xuống trùm lên mọi cảnh vật.

– Từ ngữ:

+ “đùn”: khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

+ “nghiêng”: bóng hoàng hôn dường như sa suống quá nhanh khiến cho cánh chim phải nghiêng lệch để bay về phía trời xa xăm.

* Hai câu thơ cuối:

– Từ láy “dợn dợn” là một sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng với cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”.

Bài thơ Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Huy Cận, được viết năm 1939 lấy cảm xúc từ không gian mênh mang của sông Hồng, bài thơ được in trong tập thơ “Lửa thiêng”.

Dàn ý số 2

Mở bài:

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều tác phẩm hay, nổi tiếng, trong đó bài thơ Tràng Giang là một trong những bài thơ như thế.

Thân bài:

Tràng Giang là tác phẩm nói lên cảm xúc buồn mênh mang của tác giả khi đứng trước dòng sông mênh mang, nỗi buồn đó lại xuất hiện rõ nét, mang những cung bậc cảm xúc đặc biệt trong tâm hồn của tác giả.

+ Khi đứng trước không gian rộng lớn của thiên nhiên, khung cảnh của Tràng Giang ngày càng được thể hiện rõ trong tác phẩm.

+ Tâm trạng của tác giả buồn, cô đơn, mênh mang trước khung cảnh thiên nhiên rộng mênh mang, nỗi nhớ quê hương ngày càng trở nên da diết trong tâm hồn của tác giả.

+ Những nỗi mênh mang trong cảm xúc của con người, hình ảnh bèo nói lên thân phận của con người, không biết đi về đâu, mênh mông trên chuyến đò ngang của cuộc đời.

+ Những nỗi buồn đó mênh mang trước thân phận của con người, bèo dạt và sự mênh mang của con người.

+ Nỗi nhớ quê hương ngày càng da diết, bóng chiều sa của quê hương, nỗi nhớ quê nhà da diết mang những cánh chim chiều.

+ Những hình ảnh cánh chim chiều của quê hương, những nỗi buồn đó ngày càng trở nên xa xôi trước không gian quê hương.

+ Hình ảnh người thi sĩ xuất hiện trong đoạn cuối xuất hiện rõ nét qua cách sử dụng ngôn ngữ, cách dẫn dắt và sử dụng từ ngữ của chính tác giả về cách sử dụng ngôn ngữ của chính tác giả.

+ Tâm trạng của tác giả bâng khuâng trước những sự vật của cuộc sống, tác giả đang chênh vênh trên con đường đi của mình, điều đó làm cho những khoảnh khắc buồn, mơ mộng và có sự chếnh choáng hơn rất nhiều.

+ Những nỗi nhớ, quê hương, những khoảng lặng trong tâm hồn làm cho tác giả như có điều gì đó lặng lẽ và mang những dòng cảm xúc buồn.

+ Những hình ảnh thể hiện sự nhớ nhung, da diết của tác giả đó là bóng chiều sa, lòng quê, khói hoàng hôn… Tất cả những biểu hiện đó đều thể hiện sự da diết, sự chếnh choáng trong nỗi nhớ quê hương, tình yêu da diết, cồn cào, cháy bỏng của tác giả. Cả hai khổ thơ cuối là nỗi nhớ quê hương, tình yêu với quê hương, đất nước.

Kết Luận:

Những khoảng trống trong tâm hồn của tác giả làm dâng lên những nỗi nhớ quê hương da diết, cuồng cháy của chính tác giả về toàn bộ con người, cảnh vật và  những cảm xúc chân thành nhất.

Dàn ý số 3

Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thể hiện rõ nét ở hai khổ thơ cuối trong bài:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

….

Lòng quê rờn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

van mau phan tich hai kho tho cuoi bai trang giang cua huy can Phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận

Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hiu hắt:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi theo dòng nước mà không biết trôi về đâu, tựa như dòng đời bơ vơ, vô định, cảm thấy mình  bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. Chỉ có dòng nước mênh mông với những cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô định, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con đò dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la nhưng không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. Nỗi cô đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương.

Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trơi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

“Lòng quê rờn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn, buồn bã trải dài vô tận. Cả một không gian mênh mông vắng lặng, khiến cho nỗi buồn nhớ quê hương của nhà thơ càng trở nên rõ ràng. Buổi chiều là thời gian con người đoàn tụ với quê hương, cũng là khoảng thời gian buồn nhất  trong ngày của những người con phải xa người thân, xa gia đình. Và quả thật, nỗi buồn ấy được nhà thơ khẳng định ở câu cuối:

“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê.

Bài thơ là bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô,  áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”.

Dàn ý số 4

1. Mở bài phân tích bài thơ Tràng Giang

– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và đặc điểm thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phong trào thơ Mới. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một người dân ý thức sâu sắc về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người.

– Giới thiệu về bài thơ Tràng giang: Tràng giang (rút trong tập Lửa thiêng) là một trong số những sáng tác tiêu biêu nhất, đặc sắc nhất của Huy Cận.

2. Thân bài

a. Nhan đề và câu thơ đề từ

– Nhan đề: sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.

– Câu thơ đề từ:

     + trời rộng”, “sông dài” gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la

     + “bâng khuâng”, “nhớ” – một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.

=> Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

d. Khổ 3

– Khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn: hàng nối hàng, mênh mông

– Hình ảnh “bèo”gợi sự nổi trôi, vô định

– Câu trúc phủ định “không cầu” – “không đò” đã phủ định hoàn toàn những con đường để kết nối với cuộc đời

e. Khổ 4

– Hình ảnh thơ cô điển “mây”, “chim” tác giả đã vẽ nên một bức tranh về quê hương, đất nước,.

– Nỗi nhớ, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua hai câu thơ cuối bài.

3. Kết bài

Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

II.   Bài Viết Phân Tích Bài Thơ Tràng Giang

Dàn ý số 5

I. Mở bài: Giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

Ví dụ: Một trong những nhà thơ mới nổi tiếng là nhà thơ Huy Cận, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. Thơ của Huy Cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là Tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ thể hiện cảnh thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông Hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. Đặc sắc nhất là khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ thơ cuối của bài thơ để hiểu rõ về phong cách thơ của Huy Cận.

II. Thân bài: Phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang

1. Khổ 3

– Hình ảnh những cánh “bèo dạt” lại gợi lên cảm giác chia li đã xuất hiện từ đầu thi phẩm.

– Sự cô quạnh đã được đặc tả bằng cái không tồn tại ( không gian mênh mông, trong đó không có bất cứ dấu hiệu nào là của thế giới con người: không cầu, không chuyến đò ngang).

Nỗi buồn này như vậy không chỉ là nỗi buồn giữa trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về cuộc đời và nhân thế.

2. Khổ cuối

– Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ

Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ

Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng

Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô độc của tác giả

– Hai câu cuối:

Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên

Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật

Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước

III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về hai khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang

Ví dụ: Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

Leave a Comment