12 mẫu Dàn ý cảm nhận khổ 3 bài thơ Tràng Giang

Dàn ý số 1 I, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, phạm vi phân tích 1, Tác giả: -Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới – Trước Cách Mạng, …

Dàn ý số 1

I, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, phạm vi phân tích

1, Tác giả:

-Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới

– Trước Cách Mạng, ông thường viết về thiên nhiên, vũ trụ với nỗi buồn của con người gắn bó với quê hương, đất nước.

– Sau Cách Mạng, hồn thơ lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động.

2, Tác phẩm:

-Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

3, Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể cô đơn trước vũ trụ vô tận, trước dòng đời mênh mang

II, Thân bài:

1, Khái quát:

a, Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

-Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước

b, Nhan đề:

+ Phép điệp âm “ang” à gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông

+ Là một từ Hán Việt cổ nên gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời.

c, Lời đề từ:

+ Thâu tóm nội dung của cả bài thơ

+ Các hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau

+ Cảm xúc của nhà thơ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác

=>Vừa có tác dụng định hướng, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại

2, Phân tích:

 Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)

-Câu 1,2

+ Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự bấp bênh, trôi nổi của những kiếp người vô định

+ Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, không có bóng dáng của con người

-Câu 3,4

+ Cấu trúc phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con người

=>Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn bao trùm

3, Đánh giá:

a, Nghệ thuật:

– Sử dụng những chất liệu, thi liệu gần gũi với đời sống

– Bút pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt

– Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển

b, Nội dung:

-Nỗi buồn, nỗi cô đơn của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn

– Mong muốn tìm kiếm hơi ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất vọng cùng cô đơn

– Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm

III, Kết bài:

– Tổng kết lại vấn đề

– Nêu cảm nhận của bản thân

Dàn ý số 2

I. Đôi nét về tác giả Huy Cận

– Huy Cận ( 1919-2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận

– Ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau

– Giống như thanh niên thời đó, Huy Cận nhận thức được cuộc sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường có nỗi buồn cô đơn, điều này khắc họa khá rõ trong thơ ca

– Các tác phẩm chính:

   + các tập thơ: Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Những năm sáu mươi,…

   + văn xuôi: Kinh cầu tự

–        Phong cách nghệ thuật: thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí

⇒ Huy Cận là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại

Phần 3 (khổ 4): cảnh hoàng hôn kì vĩ và tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ

–        Cái hiện hữu trước mắt là những hình ảnh gợi sự lênh đênh vô định (bèo dạt về đâu) và tĩnh lặng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng)

–        Hình ảnh mà thi sĩ khao khát tìm kiếm là chuyến đò ngang là cây cầu như sự phủ định đã nằm ngay trong từ điệp từ không

–        Cảm thức cô đơn về sự lạc loài trước cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói con người, mong được nhìn thấy sự giao lưu gần gũi giữa con người với con người nhưng tất cả vẫn bị ngăn cách (hình ảnh con đò, chiếc cầu tượng trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưn không có) nỗi buồn về cuộc đời, về nhân thế

Kết bài. Nghệ thuật

–        Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện:

   + mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổi 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt

   + cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật

   + tả cảnh ngụ tình

   + sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ

–        Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời

Dàn ý số 3

a. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ Tràng giang

Dẫn dắt vào vấn đề: khổ thơ thứ ba trong bài Tràng giang

b. Thân bài

Khái quát chung

Với nhan đề, nhà thơ đã khéo gợi lên một vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại:

“Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn.

Tác giả đã sử dụng từ Hán Việt để gợi không khí cổ kính trang nghiêm. Tác giả còn sử dụng từ biến âm “tràng giang” thay cho “trường giang”, hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.

Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc. Đồng thời cho người đọc thấy rõ hơn cảm xúc chủ đạo của tác giả xuyên suốt tác phẩm. Đó là tâm trạng “bâng khuâng”; nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi. Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp.

–> Bài thơ diễn tả tâm trạng, cảm xúc của thi nhân khi đứng trước cảnh sông nước bao la trong một buổi chiều đầy tâm sự.

Phân tích khổ thơ thứ 3 trong bài Tràng giang

– “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: phải chăng hình ảnh thơ ngoài ý nghĩa tả thực còn có ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng: Nhà thơ đang sống trong cảnh mất nước, nô lệ, nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh, trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi mà không biết trôi về đâu?

Câu 2, 3: Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được nhân lên bắng mấy lần phủ định: “Không đò… không cầu…”. Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện của sự giao nối của con người và cuộc sống, thường gợi về cuộc sống tấp nập, gần gũi và gợi nhớ quê hương. Nhưng ở đây, tất cả bị phủ định: không một cái gì đó gợi về tình người, lòng người muốn gặp gỡ lại qua nơi đôi bờ hoang vắng. Hai bờ sông cứ thế chạy dài vô tận như hai thế giới cô đơn, không chút “niềm thân mật” của những tâm hồn đồng điệu.

Câu 4: Cảnh “tràng giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ đã vẽ lên được một bức tranh thật đẹp, tĩnh lặng nhưng rất buồn.

Tiểu kết

Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều gợi buồn. Chúng “cộng hưởng” với nhau tạo thành bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ, bất hạnh, cô đơn của kiếp người trong xã hội cũ.

Nghệ thuật sử dụng thủ pháp quen thuộc của thơ cổ điển: lấy “không” để nói “có”.

c. Kết bài

Nêu nhận xét, cảm nhận khái quát về khổ thơ thứ ba

Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân

Dàn ý số 4

1. Mở bài

     Huy Cận còn là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một người dân ý thức sâu sắc về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người. Và có thể nói, Tràng giang (rút trong tập Lửa thiêng) là một trong số những sáng tác tiêu biêu nhất, đặc sắc nhất của Huy Cận.

2. Thân bài

     Đọc Tràng giang của Huy Cận, chắc hẳn người đọc sẽ cảm nhận được sự độc đáo, tài năng của ông ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ của tác phẩm. “Tràng giang” là một từ Hán Việt qua đó, gợi nên không khí cổ kính của bài thơ. Nhưng đồng thời, nhan đề ấy với cách hiệp vần “ang” – một âm tiết mở, từ đó gợi nên độ vang, độ xa và khiến người đọc liên tưởng tới sự rộng lớn, mênh mông của con sông. Thêm vào đó, câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” cũng đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la. Để rồi, trước thiên nhiên ấy, lòng người cảm thấy “bâng khuâng”, ”nhớ” – một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng. Và như vậy, ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ. Và rồi, trên cái nền của cảm xúc ấy, từng nỗi niềm, từng xúc cảm, từng cảnh vật cứ thế hiện lên.

3. Kết bài

     Và để rồi, khi bước vào khổ thơ thứ nhất của bài thơ, người đọc sẽ thêm một lần nữa cảm nhận được nỗi buồn của chủ thể trữ tình trước sự rộng lớn, bao la của thiên nhiên

Dàn ý số 5

1. Mở bài

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

2. Thân bài

     Khổ thơ đã vẽ nên một hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, vô với một dòng sông phẳng lặng có những làn “sóng gợn”, một con thuyền cứ thế lặng lẽ trôi “con thuyền xuôi mái nước song song”. Và dường như, hình ảnh con thuyền hiện lên trên dòng sông ấy càng tô đậm thêm cái vẻ hoang vắng, cô quạnh của cảnh vật. Thử hỏi, trước khung cảnh bao la như thế, con người sao có thể không cảm thấy cô đơn, lạc lõng và chủ thể trữ tình trong bài thơ cũng không ngoại lệ. Với việc sử dụng hàng loạt từ ngữ diễn tả một cách trực tiếp cảm xúc của con người “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài cùng cực, như không bao giờ nguôi, không bao giờ dứt trong tâm khảm của nhân vật trữ tình. Đặc biệt câu thơ “củi một cảnh khô lạc mấy dòng” là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Với việc sử dụng hai hình ảnh đối lập, tưởng chừng như vô lí ngay trong một câu “củi một cành khô” – “lạc mấy dòng” tác giả đã gợi nên sự lênh đênh, chìm nổi, vô định, lạc lõng của con người giữa thiên nhiên bao la, giữa dòng đời rộng lớn. Như vậy, khổ thơ đầu của bài thơ đã diễn tả nỗi buồn trầm lắng và sự lạc lõng của con người trước thiên nhiên bao la.

     Dường như, đến khổ thơ thứ hai, nỗi buồn ấy như tăng lên gấp bội trước cái hoang vắng, cô liêu của cảnh vật

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

     Nếu như ở khổ thơ thứ nhất, bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bởi hình ảnh của sông, của sóng, của thuyền thì đến đây, dường như bức tranh đã từng bước hoàn thiện hơn bằng những hình ảnh hết sức mới mẻ: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, chợ chiều, bến cô liêu. Tất cả những hình ảnh ấy gợi tả cảnh vật nhỏ bé, cô độc, thoáng lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp của cảnh vật nơi đây. Nhưng có lẽ, cái hoang vắng ấy càng được tô đậm hơn bởi âm thánh của tiếng chợ chiều. Cái âm thanh yếu ớt ấy của phiên chợ tàn càng gợi nên sự mơ hồ, tàn tạ, hoang vắng. Song, cảnh vật ở đây không chỉ được tác giả cảm nhận bằng không gian mà bằng cả bước chuyển của thời gian “nắng xuống trời lên”. Câu thơ như tách ra làm hai phần chuyển động đối ngươc nhau, tạo nên khoảng cách xa xăm, vô định, khiến chủ thế trữ tình có cái nhìn thật đặc biệt “sâu chót vót”. Đặc biệt, sự nhỏ bé, cô đơn của con người hiện lên rõ nét qua câu thơ kết thúc khổ thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Câu thơ đã sử dụng thành công thủ pháp tương phản đối lập giữa một bên là cái rộng lớn của thiên nhiên “sông dài trời rộng” với một bên là “bến cô liêu” từ đó nhấn mạnh cái cô liêu của cảnh vật và sự lạc lõng, trống vắng, cô đơn của con người.

     Và đến khổ thơ thứ ba của bài thơ, tác giả càng bộc lộ rõ hơn nỗi buồn nhân thế và niềm khát khao giao cảm với đời bằng hàng loạt các hình ảnh giàu tính biểu tượng.

Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

     Hình ảnh bèo luôn gợi nên trong lòng chúng ta sự nổi trôi, lênh đênh vô định. Song ở đây, không phải chỉ có một cánh bèo mà là “hàng nối hàng”, điều đó càng làm cho con người cảm thấy rợn ngợp và xót xa hơn. Đồng thời, tác giả còn mở rộng thêm sự rộng lớn, bao la của cảnh vật qua câu thơ “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Dường như, bức tranh thiên nhiên cứ thế rộng mở ra, hết cảnh sắc này đến cảnh sắc khác mà ta không tìm thấy hình bóng con người ở đâu và phải chăng bởi con người không thể tìm được sợi dây để gắn kết, để giao cảm

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

     Cấu trúc phủ định “không cầu” – “không đò” đã phủ định hoàn toàn những con đường để kết nối với cuộc đời. trước mắt tác giả, dường như tất cả đều xa cách để rồi ông càng cảm thấy buồn, cảm thấy cô đơn. Và càng buồn, càng cô đơn bao nhiêu ông lại càng khao khát được giao hòa, được kết nối với đời bấy nhiêu.

     Như vậy, ba khổ đầu bài thơ, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc nỗi buồn và niềm khát khao, tha thiết với thiên nhiên, cuộc đời. Và để rồi, khổ thơ khép lại bài thơ như nói ra hết, dài bày hết tình yêu quê hương, đất nước của tác giả:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

   Hai câu thơ đầu khổ thơ với những nét vẽ giản đơn cùng cách sử dụng hình ảnh thơ cổ điển “mây”, “chim” tác giả đã vẽ nên một bức tranh về quê hương, đất nước – một bức tranh vừa quen thuộc,vừa lớn lao, kì vĩ. Và rồi, từ cảnh quê hiện lên trong hai câu thơ ấy, tác giả diễn tả nỗi lòng mình với quê hương, đất nước:

Lòng quê dờn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

     Câu thơ đã mượn hình ảnh sóng nước để nói về nỗi nhớ của tác giả – một nỗi nhớ với quê hương, với đất nước mênh mông như những cơn sóng, chúng không vơi, không cạn mà cứ cuộn trào từ lớp này tới lớp khác. Nỗi nhớ ấy là tiếng lòng luôn thường trực trong tận sâu trái tim, tấm lòng của tác giả.

3. Kết bài

     Tóm lại, bài thơ Tràng giang với những nét vẽ vừa cổ điển vừa hiện đại đã bộc lộ một cách chân thực, sâu sắc nỗi buồn, sự cô đơn con người trước thiên nhiên bao la, rộng lớn và ẩn sâu trong nó là tình yêu, nỗi nhớ quê hương tha thiết, nồng nàn của tác giả.

 

 

 

 

Leave a Comment