Dàn ý cảm nhận Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài Chiều Tối

Dàn ý số 1 I.       Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm    – Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ …

Dàn ý số 1

I.       Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm

   – Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

   – Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca về cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao của Hồ Chí Minh.

II. Thân bài

1. Hai câu đầu

    Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

    Cô vân mạn mạn độ thiên không

   –    Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống, chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, những bức họa (trong bài thơ có họa) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do gần gũi về bút pháp. Còn thực ra, đây vẫn là buổi chiều nay, với cảnh thật và người thật (người tù – nhà thơ) đang tận mắt nhìn ngắm.

   Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn. Quyện nghĩa là mỏi, chán, mỏi mệt. Tầm là tìm kiếm. Cánh chim sau ngày rong ruổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú. Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng, không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông. Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua, nhưng đám mây đơn lẻ kia đã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn. Hai câu thơ, theo đúng nghĩa đen cũng chỉ ra một cảnh buồn. Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy, lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến người ta liên tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ:

    Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

    Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

    Gác mái ngư ông về viễn phố

    Gõ sừng mục tử lại cô thôn

    Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

    Dặm liễu sương sa khách bước dồn

    Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,

    Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

            (Cảnh chiều hôm – Bà Huyện Thanh Quan)

Soạn bài Chiều tối (Hồ Chí Minh) hay nhất

Tác giả – tác phẩm bài Chiều tối (Hồ Chí Minh)

Trắc nghiệm bài Chiều tối (có đáp án)

   Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn. Còn cảnh ở đây, vốn là đơn chiếc. Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội trở về. Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang lê bước trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi đau rất thật từ cảnh tình ấy?

2. Hai câu cuối

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

    Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

   – Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối len dày muôn nơi. Vậy, điều gì khiến người ta cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối? Đó là cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi. Đây cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.

   – Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy. Nếu cảnh ở trên mang nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống. Đôi mắt của người nghệ sĩ ở cảnh trước khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút và trống trải. Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp hình ảnh không ngờ:

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

   – Vóc dáng người thôn nữ cùng với công việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua đi sự cô quạnh giữa miền sơn cước. Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập.

    Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.

   Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan tỏa. Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại cùng với ánh lửa kia. Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ được trọn vẹn.

III. Kết bài

   "Mộ" là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh Khi sử dụng thể thơ luật Đường, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn bút pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt là lấy cảnh tả tình. Trong bài thơ, không có từ hay chi tiết nói về chủ thể trữ tình, nhưng người đọc vẫn nhận ra đôi mắt, tấm lòng của con người ấy. Tuy nhiên, dù mang phong vị cổ điển, đây vẫn là bài thơ hiện đại. Chất hiện đại bộc lộ ở sự vận động hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng của thi nhân. Dù bị gông cùm, xiềng xích, con người đó vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để nhìn ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện, dù chỉ nhỏ nhoi, tinh tế.

Dàn ý số 2

I. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm

Người ta biết đến Hồ Chí Minh là một danh nhân văn hóa, một chính trị gia, nhà tư tưởng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam nhưng đồng thời cũng là một cây bút lớn của nền văn học dân tộc với nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi đặc sắc. "Nhật kí trong tù" là một tập thơ nổi tiếng của Bác, đọc các bài thơ, người đọc mường tượng ra những cái cảnh Bác gợi, những cái tình, cái cảm Bác gửi vào từng con chữ. Hoàn cảnh, suy nghĩ, tư tưởng của Người nhờ đó mà cũng được mọi người cảm thông, chia sẻ nhiều hơn. "Chiều tối" là một bài thơ vô cùng đặc sắc trích trong tập thơ này.

II. Thân bài:

1. Giới thiệu tác giả tác phẩm:

a. Tác giả: Hồ Chí Minh

Là một danh nhân văn hóa, nhà tư tưởng, chính trị gia nổi tiếng của dân tộc, đất nước Việt Nam.

Là nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm ấn tượng, nổi tiếng.

b. Tác phẩm:

Trích "Nhật kí trong tù".

Hoàn cảnh sáng tác: khi Bác bị chuyển lao từ Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.

2. Phân tích bài thơ:

a. Hai câu đầu: Bức tranh núi rừng vào buổi chiều tối

Cảnh thiên nhiên được vẽ bằng những nét vẽ đậm: "chim" – "mỏi mệt bay", "chòm mây" – "bay nhẹ".

Bằng việc sử dụng thi liệu quen thuộc: "mây", "chim", ca dao, thơ lục bát, truyện Kiều – Nguyễn Du, tác giả đã vẽ cảnh bằng những nét chấm phá, tả ít gợi nhiều, gợi được cái hồn của cảnh, thời gian đang trôi về cuối ngày theo cánh chim, không gian thì vắng lặng không một bóng người. Đó là bút pháp tả cái động để gợi cái tĩnh, lấy điểm tả diện đầy tinh tế gợi gợi ra không gian, thời gian. Bức tranh miền sơn cước buổi chiều tối hiện ra vắng lặng, heo hút buồn.

Cấu trúc thơ đăng đối kết hợp cùng âm điệu thơ nhẹ nhàng gợi ra nỗi buồn, cảnh được nhìn qua con mắt nhân vật trữ tình, qua những nét vẽ ngoại cảnh ta thấy được tâm trạng của con người, đó là tâm trạng man mác buồn, mệt mỏi sau một ngày dài, nỗi buồn được tạo nên bởi ngoại cảnh, buồn vì xa Tổ quốc, mất tự do.

So sánh với hình ảnh người lữ thứ trong "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan ta có thể thấy điểm giống giữa hai bài thơ là đều nói về nỗi buồn trước cảnh chiều hôm nhưng điểm khác ở đây là bài thơ này thể hiện tâm trạng buồn của người chiến sĩ cách mạng bị lưu đày.

Qua bức tranh thiên nhiên ta còn đọc được cả tình yêu thiên nhiên của người tù, dù mệt mỏi trong cảnh chân cùm tay xích người tù ấy vẫn mở tâm hồn mình ra với thiên nhiên ngoại cảnh, tâm trạng giao hòa với cảnh vật đất trời xung quanh.

Hai câu thơ đầu mang âm hưởng cổ điển rõ nét với thể thơ, thi liệu, bút pháp miêu tả… nhưng Hồ Chí Minh học cổ nhưng không hề cổ bởi cảnh ở đây mang tâm trạng cụ thể của nhân vật trữ tình trong một hoàn cảnh cụ thể. Trong thơ Đường, thường thường là tâm thế con người trước vũ trụ bao la vô cùng vô tận…

b. Hai câu sau: Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người

Tác giả đã chuyển cảnh bất ngờ nhưng tự nhiên, hợp lý: khi trời đã tối, xung quanh tối thì ánh mắt nhân vật trữ tình tự nhiên hướng về nơi có ánh sáng, trời càng tối thì lò lửa càng rực cháy bởi vậy mà hai câu thơ sau có sự chuyển đổi không gian và thời gian rõ nét: không gian thì từ thiên nhiên núi rừng đến sông núi còn thời gian thì trời đã tối hẳn.

Hình ảnh "ma bao túc" ở cuối câu thơ thứ ba cùng với hình ảnh "bao túc ma hoàn" ở đầu câu thơ thứ tư không chỉ gợi liên tưởng đến hình ảnh vòng quay đều đặn của cối xay ngô mà còn cho người đọc cảm nhận được sự cần mẫn, chăm chỉ của người thiếu nữ miền sơn cước.

Hai câu thơ xuất hiện hình ảnh người thiếu nữ, đó là hình ảnh người lao động, khác với hình ảnh thiếu phụ trong thơ xưa. Việc đưa hình ảnh người lao động vào trong thơ đã thể hiện phần nào tính dân chủ trong tư tưởng của Hồ Chí Minh.

Từ "hồng" kết thúc bài thơ là một nhãn tự mang nhiều ý nghĩa. Tả thực, đó là ánh sáng từ bếp lò, trời càng tối thì than càng sáng, dùng ánh sáng để tả bóng tối đang lan tỏa. Nhưng sử dụng từ "hồng" ở đây còn để nói về sự sống, nơi nào có lửa nơi đó có sự sống, giữa cảnh núi rừng lụi tàn tâm hồn ánh mắt của Người luôn hướng về nơi có sự sống. "Hồng" phải chăng còn là niềm vui, là cái để người ta xua tan đi lạnh lẽo, cô đơn, heo hút của cảnh. Dường như người tù đã quên đi nỗi mệt mỏi, cô đơn của mình để hòa vào niềm vui giản dị của người lao động. Đó là tinh thần lạc quan, là chủ nghĩa nhân đạo đã đạt đến độ quên mình của Bác. Nhà thơ Hoàng Trung Thông khi cảm nhận về bài thơ này đã chia sẻ rằng: "Một chữ "hồng" thôi đủ sức cân lại 27 chữ bên trên".

Hồ Chí Minh không chỉ yêu thương dân tộc, Người vẫn hòa mình vui với niềm vui của họ (người Trung Quốc). Nhân đạo ở đây đã đạt đến tầm quốc tế vô sản.

Tâm điểm của bức tranh là cuộc sống con người. Sức sống của con người, ngọn lửa của con người là trọng tâm tỏa ấm nóng và niềm vui.

Tuy tác giả sử dụng bút pháp thơ cổ với nhãn tự, lấy ánh sáng để tạo bóng tối, sử dụng hình ảnh thiếu nữ nhưng bài thơ vẫn mang hơi hướng của thần thoại khi có sự xuất hiện của sự vận động từ nỗi buồn đến lạc quan, từ bóng tối đến ánh sáng, đó là sự vận động của tứ thơ. Yếu tố thần thoại còn thể hiện ở tính dân chủ trong việc sử dụng hình tượng hay tinh thần lạc quan. Tất cả đã thể hiện cái hiện đại toả ra từ tâm hồn người tù cộng sản Hồ Chí Minh.

III. Kết bài:

Nêu khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm:

"Chiều tối" là một bài thơ tiêu biểu cho dấu ấn cổ điển và hiện đại thể hiện trong thơ Hồ Chí Minh. Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc, bài thơ luôn để lại trong lòng người đọc rất nhiều dấu ấn, góp phần giúp nó sống mãi với thời gian, với dòng chảy văn học Việt.

Dàn ý số 3

I.       Giới thiệu sơ lược về tác giả, nêu cảm nhận chung về tác phẩm

   – Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại đồng thời là nhà thơ lớn của dân tộc. Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù) là tác phẩm tiêu biểu, được Bác viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt tại Quảng Tây (Trung Quốc), từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943.

   – Mộ (Chiều tối) là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo: Điều khác lạ là bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Trái lại, đó là một nét hoan ca về cuộc sống, về con người, biểu hiện tâm hồn hết sức đẹp đẽ, nhân cách lớn lao của Hồ Chí Minh.

II. Thân bài

1. Hai câu đầu

    Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

    Cô vân mạn mạn độ thiên không

   –     Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống, chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, những bức họa (trong bài thơ có họa) của thơ xưa. Song, phong vị cổ thi ấy do gần gũi về bút pháp. Còn thực ra, đây vẫn là buổi chiều nay, với cảnh thật và người thật (người tù – nhà thơ) đang tận mắt nhìn ngắm.

   Bức tranh phong cảnh kia tuy đẹp và nên thơ nhưng vẫn có nét buồn. Quyện nghĩa là mỏi, chán, mỏi mệt. Tầm là tìm kiếm. Cánh chim sau ngày rong ruổi, trong cái giờ khắc của ngày tàn, mỏi mệt, phải trở về rừng đặng tìm kiếm chỗ trú. Cô là lẻ loi, một mình. Mạn mạn là dài và rộng, không là trên bầu trời dài, rộng mênh mông. Bản thân bầu trời vẫn dài rộng như là triệu năm qua, nhưng đám mây đơn lẻ kia đã khiến nó càng trở nên mênh mang hơn. Hai câu thơ, theo đúng nghĩa đen cũng chỉ ra một cảnh buồn. Với người bình thường, thậm chí đang vui, trước cảnh ấy, lòng hẳn không sao tránh một cảm xúc man mác, bâng khuâng. Câu thơ khiến người ta liên tưởng đến một buổi chiều khác, trong thơ cổ:

    Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,

    Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn

    Gác mái ngư ông về viễn phố

    Gõ sừng mục tử lại cô thôn

    Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi

    Dặm liễu sương sa khách bước dồn

    Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,

    Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn

            (Cảnh chiều hôm – Bà Huyện Thanh Quan)

Soạn bài Chiều tối (Hồ Chí Minh) hay nhất

Tác giả – tác phẩm bài Chiều tối (Hồ Chí Minh)

Trắc nghiệm bài Chiều tối (có đáp án)

   Buổi chiều xưa không vắng lặng, nhưng lòng người đã tím ngát nỗi buồn. Còn cảnh ở đây, vốn là đơn chiếc. Cảnh ấy nói hộ lòng người, hẳn đang buồn. Đúng thôi, ngay đến cánh chim kia, khi chiều tắt đã vội trở về. Thế mà, giờ này, người tù mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn đang lê bước trên đường dài. Người đó không than vãn, do nhân cách vĩ đại, song ai không cảm được nỗi đau rất thật từ cảnh tình ấy?

2. Hai câu cuối

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

    Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

   – Hai câu kết chuyển hướng vận động của hình tượng thơ. Ở trên, cảnh vật mênh mông, vắng lặng, ánh nắng ngày đang dần tắt, nhường chỗ cho bóng đêm ập xuống. Còn ở đây, dù không tả nhưng ai cũng biết, đất trời đã vào đêm, bóng tối len dày muôn nơi. Vậy, điều gì khiến người ta cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận thấy được ánh sáng và bóng tối? Đó là cánh chim đơn lẻ bay về chốn cũ. Đặc biệt, đó là ánh rực hồng của lò than nơi xóm núi. Đây cũng là lối chấm phá, lấy ánh sáng tả bóng tối.

   – Nhưng sự chuyển hướng đích thực của hình tượng thơ không chỉ có vậy. Nếu cảnh ở trên mang nét buồn của sự lẻ loi, hoang vắng, thì cảnh ở đây, dù là đêm tối nhưng ấm áp, giàu sức sống. Đôi mắt của người nghệ sĩ ở cảnh trước khi phóng nhìn ra xa và lên cao, càng nhìn càng mất hút và trống trải. Khi đôi mắt ấy nhìn gần, đã bắt gặp hình ảnh không ngờ:

    Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

   – Vóc dáng người thôn nữ cùng với công việc lao động dường như là thường ngày ấy đã xua đi sự cô quạnh giữa miền sơn cước. Và, đến lúc công việc đã xong, thì ánh sáng tràn ngập.

    Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.

   Trong bóng đêm, ánh sáng ấy càng có sức lan tỏa. Lòng người từng man mác buồn đã ấm lại cùng với ánh lửa kia. Đến đây thì sự vận động của hình tượng thơ được trọn vẹn.

III. Kết bài

   "Mộ" là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Hồ Chí Minh Khi sử dụng thể thơ luật Đường, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn bút pháp chấm phá để tả cảnh, lấy động tả tĩnh, đặc biệt là lấy cảnh tả tình. Trong bài thơ, không có từ hay chi tiết nói về chủ thể trữ tình, nhưng người đọc vẫn nhận ra đôi mắt, tấm lòng của con người ấy. Tuy nhiên, dù mang phong vị cổ điển, đây vẫn là bài thơ hiện đại. Chất hiện đại bộc lộ ở sự vận động hình tượng thơ, nhất là ở tấm lòng và tư tưởng của thi nhân. Dù bị gông cùm, xiềng xích, con người đó vẫn hết sức ung dung tự tại, luôn quên mình để nhìn ngắm cuộc sống và rung động với từng biểu hiện, dù chỉ nhỏ nhoi, tinh tế.

Dàn ý số 4

I. Đôi nét về tác giả Hồ Chí Minh

–        Hồ Chí Minh (1890 – 1969) xuất thân trong gia đình nhà nho yêu nước

–        Thuở bé học chữ Hán sau đó học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, rất am hiểu văn hóa, văn học phương Đông (Trung Quốc) và văn hóa, văn học phương Tây (Pháp) ⇒ hai dòng phương Đông và Phương Tây quyện chảy trong huyết mạch văn chương.

–        Quá trình hoạt động cách mạng:

  + 1911: ra đi tìm đường cứu nước.

  + 1918 – 1922: hoạt động Cách mạng trên đất Pháp, tích cực viết báo, viết sách tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân và đoàn kết các dân tộc thuộc địa.

  + 1923 – 1941: chủ yếu hoạt động ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.

  + 1942-1943: bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt và giam giữ ở các nhà ngục Quảng Tây, Trung Quốc.

  + 2- 9 – 1945: đọc bản Tuyên ngôn độc lập…

⇒ Vị lãnh tụ vĩ đại đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn với di sản văn học quí giá.

–        Các tác phẩm chính:

  + văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quí hơn độc lập tự do (1966)…

  + truyện và kí: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923), Những trog lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)…

  + thơ ca: tập thơ Nhật kí trong tù và nhiều bài thơ sáng tác tại Việt Bắc

–        Phong cách nghệ thuật

  + Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp Cách mạng

  + Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức

 + Hồ Chí Minh luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật.

  + Hồ Chí Minh đòi hỏi nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện, tránh lối viết cầu kì, xa lạ, nặng nề.

II. Đôi nét về tác phẩm Chiều tối (Hồ Chí Minh)

1. Hoàn cảnh sáng tác

–        Bài thơ rút ra từ tập thơ Nhật kí trong tù, tập thơ sáng tác khi tác giả bị chính quyền Tưởng Gới Thạch bắt giam trong suốt 13 tháng

–        Cảm hứng được gợi lên bởi cuộc chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo

2. Bố cục

–        Phần 1 (hai câu đầu): bức tranh thiên nhiên

–        Phần 2 (hai câu cuối): bức tranh đời sống con người

3. Giá trị nội dung

–        Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh

4. Giá trị nghệ thuật

–        Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại

III. Dàn ý phân tích Chiều tối (Hồ Chí Minh)

1. Bức tranh thiên nhiên

–        Hình ảnh cánh chim

  + ý nghĩa tả thực: cánh chim chiều nên dáng bay mệt mỏi nhưng hướng bay có mục đích: về rừng tìm chốn ngủ. Chiều tối với vạn vật là sự trở về nghỉ ngơi. Hoạt động của chim có động lực thúc đẩy

  + ý nghĩa liên tưởng:

    •    giữa chủ thể trữ tình và hình ảnh cánh chim có nét tương đồng là đều mệt mỏi, chim bay liên tục, người tù cũng đi liên tục

    •    nét khác biệt: chim cố gắng bay về tổ ấm còn người tù tiếp tục đi cũng chỉ đến một nhà lao khác; nếu chim có động lực thúc đẩy thì người tù chẳng có động lực nào cả

•    ẩn sấu trong đó còn là nỗi nhớ nhà, nhớ nước của người con bị tù đày ở nơi xa xứ

–        Hình ảnh chòm mây:

  + ý nghĩa tả thực: chòm mây lẻ loi trôi lững lờ giữa tầng không

  +  nghĩa liên tưởng: đám mây lẻ loi giữa bầu trời cũng như sự lẻ loi cô đơn của người tù giữa núi rừng bao la

–        Thiên nhiên được miêu tả bằng bút pháp cổ điển

  + bút pháp ước lệ (hình ảnh chim bay về núi chỉ thời gian chiều tối)

  + hình ảnh chọn lọc nói lên cái đẹp của cảnh nhưng tĩnh lặng, u buồn

  + tả cảnh ngụ tình

2. Bức tranh đời sống con người

– Hình ảnh thiếu nữ xay ngô là trung tâm của bức tranh. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn của người lao động. Sự xuất hiện của thiếu nữ xay ngô khiến bài thơ có tiến triển mới:

  + thiên nhiên đi vào nghỉ ngơi nhưng nhịp sống con người vẫn dẻo dai

  + cảnh trong hai câu đầu rất tĩnh còn ở hai câu cuối này nhờ hoạt động con người mà trở nên sinh động hơn

  + hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối như đang nhem nhóm lên niềm vui, niềm lạc quan, xua tan đi cảm giác lạnh lẽo, cô dơn trong lòng người xa xứ

–        Hai câu thơ cuối tả người bằng tinh thần hiện đại:

  + hình tượng thơ có sự vận động tích cực

  + bài thơ kết thúc ở màu hồng

  + đằng sau cặp mắt quan sát tinh tế là tâm hồn người cộng sản luôn hướng tới niềm vui, lạc quan tin tưởng bước về phía trước

3. Nghệ thuật

–        Đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại

–        Ngôn từ tả ít, gợi nhiều, ý tồn tại ngoài lời

Dàn ý số 5

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

– Tác giả Hồ Chí Minh:

+ Bậc anh hùng cứu quốc của dân tộc Việt Nam.

+ Là nhà văn hoá lớn, nhà thơ lớn.

– Tác phẩm: Bài thơ là một trong số 134 bài thơ trong tập Nhật kí trong tù, thể hiện sâu sắc phong cách thơ của Hồ Chí Minh.

– Đó là sự kết hợp hài hoà giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.

2. Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ

a. Vẻ đẹp cổ điển:

– Đề tài: Bài thơ là bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người lúc chiều tối. Đây là đề tài quen thuộc của thơ ca cổ (dẫn chứng).

– Hình ảnh thơ: tác phẩm sử dụng những thi liệu quen thuộc trong thơ ca cổ với ý nghĩa tượng trưng tạo nên tính chất hàm súc cho bài thơ.

+ Hình ảnh cánh chim: biểu tượng cho không gian lẫn thời gian, là tín hiệu cho buổi hoàng hôn.

+ Hình ảnh chòm mây: biểu tượng cho không gian cao rộng của bầu trời.

– Thể thơ tứ tuyệt, lời ít ý nhiều, để lại nhiều dư ba.

– Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: chỉ bằng vài nét chấm phá mà ghi lại linh hồn của tạo vật và gợi được nỗi niềm của nhà thơ.

b.Vẻ đẹp hiện đại:

– Hình ảnh thơ: cánh chim, chòm mây, người con gái xay ngô là những hình ảnh của hiện thực.

+ Cánh chim mỏi: chữ “mỏi” thể hiện sự cảm nhận rất sâu cái bên trong của sự vật. Đó là cánh chim bay theo cái nhịp điệu bất tận của cuộc sống. Đó là cánh chim của tự do, của ước mơ sum họp. Đấy cũng là niềm khao khát của người tù.

+ Chòm mây cô đơn trôi chậm chạp giữa bầu trời là hình ảnh ẩn dụ về người tù đang bị giải đi trên đường xa vạn dặm chưa biết đâu là điểm dừng. Thế nhưng phong thái của người tù vẫn rất ung dung, tự tại, phong thái của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, luôn làm chủ hoàn cảnh.

+ Hình ảnh người con gái xóm núi xay ngô tối là hình ảnh của con người lao động, hiện lên sinh động, khỏe khoắn, tích cực, là trung tâm của bức tranh Chiều tối.

+ Sự rực hồng của bếp lửa, hình ảnh này đã xua tan đi bóng tối, giá rét, mang đến cho người tù niềm vui của sự sống, của hơi ấm.

=> Hình ảnh thơ giản dị mà chứa đựng được những tình cảm rất đỗi đời thường và một nghị lực phi thường của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.

– Sự vận động của tứ thơ: đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui.

=>Thể hiện được tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của Bác.

– Tâm hồn Bác:

+ Yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.

+ Đồng cảm, chia sẻ với muôn loài, đặc biệt là nỗi vất vả của những con người lao động. Đó cũng là tình cảm quốc tế vô sản trong sáng.

+ Tâm hồn lạc quan, giàu nghị lực.

=> Đó là một tâm hồn nghệ sĩ mà rất chiến sĩ.

3. Đánh giá chung:

– Khẳng định lại vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã góp phần làm nên thành công của bài thơ Chiều tối và phong cách thơ của Hồ Chí Minh.

-Qua đó đã làm toát lên hình tượng nhân vật trữ tình: Người vừa có tâm hồn thi sĩ vừa có cốt cách của người chiến sĩ. Bác có tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và nghị lực phi thường.

Leave a Comment