Dàn ý số 1
1. Mở bài
– Giới thiệu sơ lược về tác giả Phạm Tiến Duật
+ Phạm Tiến Duật (1941 – 2007) là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mĩ.
– Giới thiệu khái quát Bài thơ về tiểu đội xe không kính
+ Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mĩ, ca ngợi tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
2. Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh sáng tác bài thơ:
– Bài thơ được sáng tác trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra rất gay go, ác liệt. Từ khắp các giảng đường đại học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc.
– Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn trong đó có những đoàn xe vận tải vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù để ra trận.
– Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc hoạ thành công chân dung người chiến sĩ lái xe.
* Hình ảnh những chiếc xe không kính
– Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
+ Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
+ Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
=> Hai câu thơ đã giải thích nguyên nhân những chiếc xe lại không có kính, qua đó phản ánh mức độ khốc liệt của chiến tranh.
* Hình ảnh người lính lái xe
– Tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
+ Tính từ ung dung nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
– Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:
+ Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
-> Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính nhưng không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
+ Điệp từ “ừ thì”: như một cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuận, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.
=> Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
– Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết:
+ Tiểu đội xe là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
+ Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
=> Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.
– Niềm tin vào chiến thắng:
+ Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.
-> Hình ảnh “trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến lớn.
=> Tất cả cùng chung lí tưởng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tin tưởng vào tương lai tươi sáng đang tới rất gần.
* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật:
– Kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ
– Sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, hoán dụ…
– Sáng tạo được những hình ảnh độc đáo có chất liệu hiện thực sinh động
– Ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
3. Kết bài
– Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
– Liên hệ việc giáo dục phát huy tinh thần chiến đấu cho thế hệ trẻ hiện nay.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là tác phẩm được giải nhất trong cuộc thi thơ trên báo Văn nghệ năm 1969, cùng với các bài thơ Lửa đèn, Gửi em cô gái xung phong, Nhớ.
2. Thân bài
Thơ Phạm Tiến Duật đem lại một giọng điệu tinh nghịch mà sâu lắng, vừa trẻ trung vừa dân dã. Ngay ở đầu đề bài thơ đã có cái gì khác thường ngộ nghĩnh: ” … Tiểu đội xe không kính: là một cái tên đặt có tính chất bông đùa rất lính tráng. Nhan đề một bài thơ không nhất thiết cứ phải thêm cụm từ “Bài thơ về …” người ta mới biết là thơ. Việc thêm cụm từ đó có tác dụng khẳng định một chất thơ mới mà trước đó người ta có thể chưa nghĩ là thơ, cũng có thể chỉ là tác dụng nhấn mạnh mà thôi.
Câu mở đầu bài thơ là lời giải thích của người lính về “xe không kính” ngộ nghĩnh, bởi vì chẳng có ai sản xuất xe mà không có kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Xe không kính – biểu tượng thách thức của sự tàn phá, hủy diệt. Nhưng không sự tàn bạo nào lay chuyển được tinh thần các chiến sĩ lái xe:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
3. Kết bài
Tư thế của họ mới đàng hoàng làm sao! Con mặt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ “nhìn thẳng” – Nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.
Dàn ý số 3
1. Mở bài
Một sự đối lập khá độc đáo được tác giả sử dụng trong đoạn thơ này: đi trong mưa bom bão đạn mà người lính vẫn luôn ung dung, bình thản. Người lính thật khẳng khái, bất chấp bom đạn:
2. Thân bài
Ung dung buồng lái ta ngồi!
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Đây là một cái nhìn tự do như coi thường tất cả những hiểm nguy và vất vả trong cuộc chiến. Đây là cái nhìn của những con người bản lĩnh. Cái nhìn của người lính trong tiểu đội xe không kính là cái nhìn ung dung, bình thản, tập trung cao độ. Mặc dù xe không kính như thế nhưng người lính vẫn bình tĩnh, tự tin để ra tiền tuyến, vẫn có cái nhìn ngạo mạn trước hiểm nguy. Người lái xe không kính thật bản lĩnh. Lòng căm thù giặc đã giúp họ vững vàng tay lái để đưa tiểu đội ra tiền tuyến. Tình yêu Tổ quốc đã làm người chiến sĩ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh. Ý chí chiến đấu đã làm người lính lái xe không cảm thấy vất vả khi xe không có kính.
3. Kết bài
Xe không kính đã làm người chiến sĩ gần gũi với thiên nhiên, hoà nhập với thiên nhiên trên đường ra trận:
Dàn ý số 4
1. Mở bài
Những chiếc xe ấy bị biến dạng, bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt làm sao: sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người. Vậy mà, những chiếc xe ấy, dưới con mắt của Phạm Tiến Duật, vẫn hiện lên một cách rất độc đáo, rất có hồn, rất ngang tàng.
2. Thân bài
Và vô hình trung, chúng đã trở thành biểu tượng đặc trưng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Và có lẽ vì thế, mà chúng đã làm nổi bật lên hình ảnh những người lính lái xe – thế hệ trẻ Việt Nam hiện lên trong cuộc kháng chiến trường kì. Thơ như lời nói, lời kể chân tình:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhịp thơ ngắn, nhanh, điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Rồi sau đó, lại là lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
3. Kết bài
Những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Lời thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát, khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.
Dàn ý số 5
1. Mở bài
Nét đẹp đầu tiên ta bắt gặp ở những người chiến sĩ lái xe là tư thế hiên ngang, dũng cảm, tâm hồn trẻ trung, lãng mạn:
2. Thân bài
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy ” ung dung” được đảo lên câu đầu kết hợp với từ ” nhìn” được lặp lại ba lần đã khắc họa một tư thế thật đẹp của người lính, họ vẫn ung dung ngồi trong buồng lái khi mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tất, cụm từ” nhìn thẳng” được dùng thật hay, nhìn thẳng là nhìn vào con đường trước mắt, nhìn thẳng vào gian khổ nhưng không hề run sợ né tránh.
Không chỉ đẹp ở tư thế hiên ngang, dũng cảm người lính còn rất đáng yêu bởi tâm hồn trẻ trung lãng mạng.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
3. Kết bài
Những câu thơ nhanh, gấp mà nhịp nhàng như bánh xe lăn đều trên đường, bằng việc sử dụng phép điệp ngữ ” nhìn thấy” kết hợp động từ” xoa, chạy thẳng, sa, ùa”, tác giả đã diễn tả cảm giác mạnh và đột ngột của người chiến sĩ lái xe khi ngồi trong buồng lái, qua ô cửa kính vỡ trong tư thế ” nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người lính như cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt ” con đường chạy thẳng vào tim” là hình ảnh đặc sắc gợi lên tốc độ của chiếc xe đang nhanh trên con đường, nó cũng là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng của con đường cách mạng, con đường chiến đấu giải phóng miền Nam, người lính chỉ quan tâm tới nhiệm vụ không hốt hoảng sợ hãi dường như tất cả thiên nhiên vạn vật đồng hành cùng họ tiến về phía trước.