Soạn bài muốn làm thằng cuội ngắn gọn đầy đủ

Kéo xuống để xem hoặc tải về! Tải file Soạn bài 1 I. Tác giả, tác phẩm 1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Tản Đà trong SGK Ngữ văn …

Kéo xuống để xem hoặc tải về!

Soạn bài 1

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả (các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Tản Đà trong SGK Ngữ văn 8 tập 1).

 

2. Tác phẩm

 

 

 

* Xuất xứ: Bài thơ Muốn làm thằng cuội nằm trong quyển Khối tình con I, xuất bản năm 1917.

 

 

 

* Thể thơ: Bài thơ Muốn làm thằng cuội được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. Đây vốn là thể thơ thường được sử dụng để thể hiện những nội dung trang trọng. Tuy nhiên, với bài thơ này, giọng điệu ngông nghênh và tư tưởng bất đắc dĩ của tác giả lại trái ngược với tính chất của thể thơ này.

 

* Bố cục:

 

Hai câu đề: Cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ.

Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả

Hai câu luận: Ước mơ thoát li khỏi thực tại

Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

 

 

 

Hai câu thơ đầu là tiếng than và lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng. Tản Đà có tâm trạng “chán trần thế” là do ông cảm thấy bế tắc và bất hòa sâu sắc với xã hội lúc bầy giờ. Bởi xã hội ta thời đó rất tù hãm, uất ức, đất nước bị mất chủ quyền, người dân phải sống trong xã hội thực dân phong kiến tàn ác, bất nhân. Bên cạnh đó, Tản Đà còn buồn vì phận tài hoa mà lận đận, không đủ sức thay đổi hiện thực bi kịch.

 

Câu 2:

 

* Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng, Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. “Ngông” ở đây chính là thái độ bất cần đời, dám làm những điều trái với lẽ thường mà không sợ người đời đàm tiếu, đó chính là thái độ phóng túng, coi thường khuôn phép.

 

 

 

* Cái “ngông” của Tàn Đà trong ước muốn được làm thằng cuội:

 

Muốn thoát khỏi cõi trần buồn chán, xấu xa để lên cõi mộng

Xưng hô suồng sã với chị Hằng, muốn được chị coi là bạn.

Cách lên trời, lên trăng bộc lộ chất “ngông”: muốn chị Hằng ghì cành đa xuống

Câu 3 là sự ướm hỏi thì câu thơ thứ 4, Tản Đà tự tin về bản thân, khi lên được cung quế sẽ làm cho chị Hằng bớt lẻ loi, buồn tủi.

=> Tản Đà là một hồn thơ “ngông”  giữa cái tỉnh và cái điên, giữa cõi thực và cõi mơ, thể hiện cá tính, thái độ của ông trước cuộc đời đầy bất công. Đặc biệt, phía sau cái “ngông” của ông chính là nhân cách hơn người.

 

 

 

Câu 3:

 

Hình ảnh cuối bài thơ : “Tựa nhau trông xuống thế gian cười”. Cái cười ở đây mang nhiều ý nghĩa:

 

Cười thể hiện niềm vui được thỏa mãn ước mơ lên cõi mộng tưởng

Cười vì nhà thơ nhìn thấy thế gian ông từ bỏ vẫn là trần tục tầm thường, buồn chán

Cười để thể hiện sự mỉa mai, giễu cợt khi Tản Đà ở vị trí cao hơn cõi trần ông đang sống.

Câu 4:

 

Những yếu tố nghệ thuật đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ:

 

Trí tưởng tượng sáng tạo, tâm hồn bay bổng của nhà thơ

Thể thơ thất ngôn bát cú mà lời thơ tự nhiên, giản dị, phóng khoáng

Giọng điệu khi thì than thở, khi thì cầu xin, khi lại đắc ý làm cho bài thơ trở nên vui tươi, linh hoạt.

Có những cách tân mới khi thể hiện cái “tôi”, khác với những bài thơ Đường cổ điển.

Bài soạn 2

Soạn bài: Muốn làm thằng Cuội

Bố cục:

– Phần 1 (2 câu đầu): Tâm trạng của nhà thơ.

 

– Phần 2 (4 câu tiếp): Ước nguyện của nhà thơ.

 

– Phần 3 (2 câu kết): Hình ảnh tưởng tượng của nhà thơ.

 

Nội dung

– Bài thơ "Muốn làm thằng cuội" là tâm sự của một con người bất hòa với xã hội tầm thường, buồn tẻ, muốn thoát li bằng mộng tưởng lên cung trăng để bầu bạn với chị Hằng.

 

– Bài thơ thể hiện sự lãng mạn pha chút ngông nghênh đáng yêu và những tìm tòi đổi mới trong thơ cổ điển của Tản Đà.

 

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 156 sgk Văn 8 Tập 1): Hai câu thơ đầu là lời tâm sự của Tản Đà với chị Hằng, ông chán trần thế vì:

 

– Xã hội ông sống là xã hội thực dân phong kiến rối ren, mục nát.

 

– Bản thân ông là người có tài nhưng lại long đong, cô đơn.

 

→ Tản Đà cảm thấy buồn trước cuộc sống đó, ông cảm thấy "chán nửa rồi".

 

Câu 2 (trang 156 sgk Văn 8 Tập 1):

 

– "Ngông" là thái độ sống vượt lên mức bình thường, là chơi trội, là làm những việc người khác không làm được, bất chấp sự khen chê của người đời.

 

– Cái "ngông" của Tản Đà: muốn đi xa khỏi trần gian để lên cung trăng với chị Hằng.

 

+ Ở câu 3-4: Xưng hô suồng sã với chị Hằng, muốn được làm chú Cuội.

 

Bày cách cho chị Hằng đưa mình lên chơi.

 

+ Ở câu 5-6: Muốn lên cung trăng dạo chơi cùng gió cùng mây.

 

Muốn bầu bạn với chị Hằng và tự tin rằng có mình lên chị Hằng sẽ bớt buồn.

 

Câu 3 (trang 156 sgk Văn 8 Tập 1): Cuối bài thơ là hình ảnh "Tựa nhau trông xuống thế gian cười". Cái "cười" ở đây có nhiều ý nghĩa:

 

– Cười vì vui vẻ, thoải mái khi được sống ở một nơi thơ mộng, khác hẳn trần gian bí bách, ngột ngạt.

 

– Cười giễu nhại trước những gì đang xảy ra nơi trần thế đầy những nhiễu nhương, buồn chán.

 

Câu 4 (trang 156 sgk Văn 8 Tập 1): Yếu tố nghệ thuật làm nên sức hấp dẫn của bài thơ:

 

– Trí tưởng tượng lãng mạn, bay bổng của tác giả.

 

– Nguồn cảm xúc dồi dào, phóng túng tạo ra cuộc trò chuyện với chị Hằng rất thú vị và hấp dẫn

 

– Cái "ngông" của nhà thơ làm giọng thơ độc đáo khác thường.

 

– Lời thơ giản dị, tự nhiên, giọng điệu thay đổi: lúc thì than thở, lúc lại cầu xin, khi thì đắc ý làm cho bài thơ linh hoạt. Mặc dù làm theo luật thơ Đường nhưng vẫn chứa đựng sự phóng túng, thoải mái.

 

Luyện tập

Câu 1 (trang 157 sgk Văn 8 Tập 1): Các cặp 3-4, 5-6 bắt buộc phải đối nhau:

 

– Câu 3-4 đối:

 

+ Hình ảnh: cung quế – cành đa

 

+ Hoạt động: ngồi – nhắc

 

+ Ý tứ: thăm dò- đề nghị

 

– Câu 5-6 chủ yếu là đối ý: bầu bạn-gió mây, tủi – vui

 

Câu 2 (trang 157 sgk Văn 8 Tập 1): So sánh

 

Tác phầm             Qua đèo Ngang Muốn làm thằng cuội

Ngôn ngữ, giọng điệu     Mực thước, trang trọng                Phóng khoáng pha chút hóm hỉnh, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày

Vần luật               Chặt chẽ, chỉnh Vần luật chặt chẽ nhưng nghệ thuật phóng túng.

Bài soạn 3

ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

1. Tại sao nhà thơ lại muốn làm thằng Cuội, muốn lên cung trăng với chị Hằng? Nỗi huồn chán của nhà thơ là do đâu?

 

Mở đầu bài thơ, hai câu đề, là tâm trạng của tác giả trước cảnh đời:

 

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

 

Trần thế em nay chán nửa rồi.

 

Gặp cảnh đêm thu đã buồn lại buồn và chán nữa. Nồi buồn chán ấy như thể được nhân lên, chất chứa trong lòng, khiến nhà thơ phải thốt thành lời. Lời thở than cùng là một tâm trạng, một nỗi buồn da diết khôn nguôi. Ấy là nỗi buồn thời thế hay thân thế khiến nhà thơ chán cả cõi đời. Trong bài Giới sầu (1918), Tản Đà đã viết: Từ độ sầu đến nay, ngày cũng có lúc sầu, đêm ‘cũng có lúc sầu. Mưa dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu, nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ văn ngâm vịnh mà càng sầu… Sầu không có mối, chém sao cho dứt, sầu không có khối đập sao cho tan… Không chỉ sầu đời, thi sĩ còn chán đời, một nỗi chán đời ngỡ như như đậm đặc trong thơ ông:

 

Đời đáng chán biết thôi là đủ

 

Sự chán đời xin nhủ lại tri âm.

 

Hay:                           

 

Gió gió mưa mưa đã chán phèo

 

Sự đời nghĩ đến lại buồn teo.

 

Thật đúng như lời thi sĩ Xuân Diệu đã viết: Có ai đã sống những ngày tháng từ 1925 trở về đến 1935 chắc đều đã nhận thấy xã hội ta lúc đó sống trong một không khí tù hãm, u uất, phàm ai có đầu óc đều muốn thoát li, mà không thoát li cho nổi (chỉ có những người làm cách mạng mới sang một hệ thống, một phạm trù tư tưởng, tình cảm, tâm trạng khác) muốn giải khuây, người ta mượn tha văn, để thấy mình trong đó, ngõ hầu thơ văn có thốt hộ ra lời nói cái điều gì mà mình chỉ cảm thấy mờ mờ (cái mà châu Âu gọi là “cái mù mờ của những đam mê khát vọng”). Vì vậy, thuở ấy người ta đọc thơ nhiều. Tản Đà, qua những thơ văn trước tác hồi đó, đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc của đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta (Tìm hiểu về Tản Đà, Tuyển tập Tản Đà NXB Văn học,-Hà Nội, 1986).

 

Tưởng là vô cớ nhưng thực ra nỗi buồn chán của thi sĩ đã chứa chan bao quát nhiều điều: từ nỗi đau trước sự tồn vong của đất nước, của dân tộc đến nỗi đau kiếp người trước cảnh gió gió mưa mưa rồi nỗi cô đơn thất vọng, bế tắc của riêng mình: “Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo. Mà đến bây giờ có thế thôi”.

 

Chính vì thế, thi sĩ Tản Đà muốn thoát li cái xã hội ngột ngạt, tầm thường thời bấy giờ bằng mộng tưởng. Ông “muốn làm thằng Cuội” bỏ quách nhân gian để lên cung quế sống bên chị Hằng.

 

2. Nhiều người đã nhận xét một cách xác đáng rằng Tản Đà là một hồn thơ “ngông”. Ngông là gì? Ngông là làm những việc trái với lẽ thường, khác với mọi người xung quanh mình. Trong văn học, ngông là biểu hiện của ngòi bút có cá tính mạnh mẽ, bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời, không chịu gò ép mình trong khuôn khổ chật hẹp của lễ nghi lề thói thông thường, chẳng hạn Nguyễn Công Trứ lấy mo cau che đít bò đủng đỉnh cưỡi lên chùa trong Bài ca ngất ngưởng hay Trần Tế Xương trong bài Bần nhi lạc đã ngợi ca lối sống của chú Mán: “Không đội nón chịu màu da dãi nắng. Chẳng nhuộm răng, để trắng dễ cười đời”.

 

Còn Tản Đà, chính nhà thơ cũng tự nhận:

 

Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

 

Đầy xuống hạ giới về tội ngông.

 

Trong bài thơ này, cái ngông đó bộc lộ trong ý muốn được làm thằng Cuội, bỏ quách trần gian lên cung trăng cùng sống bên chị Hằng, bầu bạn vui cùng gió cùng mây trông xuống cõi người mà cười cợt.

 

Tuy nhà thơ gọi Hằng Nga là chị, tự xưng mình là em nhưng giọng điệu bài thơ không khỏi ít nhiều có tình ý lơi lả, ý vị cợt đùa. Trong cách xưng hô trò chuyện của ông với người đọc ít nhiều cũng hàm chứa thái độ chơi ngông. Đặc biệt là tư thế ở cuối bài thơ: Tựa nhau trông xuống thế gian cười thì đúng là một thái độ ngông nghênh khác lạ so với đương thời.

 

Vì sao nhà thơ là ngông như thế? Phải chăng là do mối bất hòa sâu sắc với hiện thực. Hơn nữa, ông lại có cá tính phóng khoáng và “thuộc giống đa tình” như chính ông đã tự nhận.

 

3. Sau cùng, hai câu kết càng bộc lộ tâm trạng của nhà thơ:

 

Rồi cứ mỗi năm rằm tháng Tám

 

Tựa nhau trông xuống thế gian cười.

 

Hình ảnh “tựa nhau” giữa nhà thơ cùng chị Hằng mới lãng mạn làm sao. Rằm tháng Tám, đêm Trung thu chính là lúc trăng tròn và sáng nhất trong năm. Khi đó, người người trong cõi trần gian này đều ngẩng đầu lên ngắm trăng. Cũng chính khi đó, nhà thơ ngồi trên cung trăng tựa vai chị Hằng “trông xuống thế gian cười”.

 

Buồn chán cõi trần gian xô bồ, nhố nhăng, bất hòa với thực tế, nhà thơ muốn tìm nơi ẩn náu. Nơi ấy là thiên nhiên, là cung quế chị Hằng, để từ đó giễu cợt lại đời bằng thái độ kiêu bạc của mình.

 

4. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ

 

Bài thơ tuy được viết theo thể Đường luật nhưng không hề gò bó, trái lại, rất tự nhiên, đậm đà và có duyên. Nhà thơ lại đưa cả lời ăn tiếng nói dân gian vào đây một cách nhuần nhị, mộc mạc và giàu sức biểu hiện, tạo được một không khí trò chuyện thân tình (“chị Hằng ơi!”, "chán nửa rồi", "ai ngồi đó chửa, nhấc lên chơi…”)

 

Cả bài thơ thể hiện sức tưởng tượng phong phú, dồi dào và táo bạo của hồn thơ lãng mạn Tản Đà, nói lên một thấm thía tâm sự buồn chán của nhà thơ đối với thực tại khi ấy. Ý tình này về sau được nhiều nhà thơ mới kế thừa và đẩy tới mức sâu sắc hơn.

 

ĐỌC THÊM

 

HẦU TRỜI

 

Bấm trời, canh con thực nghèo khó

 

Trần gian thước đất cũng không có

 

Nhờ trời năm xưa học ít nhiều

 

Vốn liếng còn một bụng văn đó

 

Giấy người, mực người thuê người in

 

Mướn cửa hàng người bán phường phổ

 

Văn chương hạ giới rẻ như bèo

 

Kiếm được đồng lãi thực rất khó.

 

(Tản Đà)

 

NĂM HẾT HỮU CẢM

 

Đời người, lo mãi biết bao thôi?

 

Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi!

 

Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt

 

Tài tình một gánh nặng bên vai

 

Hợp tan tri kỉ người trong mộng

 

Rộng hẹp dung thân đất với trời!

 

Sương phủ cành mai năm giục hết

 

Ngày xuân con én lại đưa thoi.

 

Bài soạn 4

Soạn bài Muốn làm thằng Cuội đầy đủ lớp 8

I. Tìm hiểu chung về bài Muốn làm thằng Cuội đầy đủ lớp 8

1. Tác giả

 

Tản Đà (1889 – 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam.

Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông.

Được coi là gạch nối của thơ ca cổ điển và hiện đại Việt Nam

2. Tác phẩm

 

Trích trong tập “Khối tình con” – quyển thứ nhất, Tản Đà, Nhà in Văn Minh, Hải Phòng – Hà Nội, in lần thứ hai, 1918

Bố cục:

 

Hai câu đề: Sự chán trường cuộc sống trần gian nhàm chán, buồn tẻ

Hai câu thực: Cõi mộng tưởng của tác giả

Hai câu luận: Khát khao thoát li khỏi thực tại

Hai câu kết: Viễn cảnh cuộc sống hạnh phúc ở cung trăng

II. Hướng dẫn Soạn bài Muốn làm thằng Cuội đầy đủ lớp 8

Câu 1 trang 156 SGK văn 8 tập 1

 

Tản Đà có tình trạng chán trần thế là vì:

 

Sống trong xã hội thực dân phong kiến tàn tác, bất nhân

Mang nỗi nhục vong quốc

Một tâm hồn phóng túng không quen sống trong hoàn cảnh tù túng của chế độ

Bất lực vì không thể làm được gì để thay đổi thực tại

Câu 2 trang 156 SGK văn 8 tập 1

 

Em hiểu từ “ngông” đó là: Dám làm trái lẽ thường với thái độ phóng túng không sợ bị người khách chê cười

 

Cái “ngông” của Tản Đà trong “Muốn làm thằng Cuội”:

Xưng hô “chị” với chị Hằng, muốn được chị coi là bạn

Muốn thoát li khỏi trần thế buồn chán bằng cách lên cõi mộng

Cách lên trời: muốn chị Hằng ghì cành đa xuống.

=> Một hồn thơ "ngông" giữa cái tỉnh và cái điên, giữa cõi thực và cõi mơ thể hiện cá tính, thái độ sống của ông trước cuộc đời đầy bất công, ô trọc. Phía sau cái "ngông" của ông là nhân cách hơn người.

 

Câu 3 trang 156 SGK văn 8 tập 1

 

Cái "cười" trong “Tựa nhau trong xuống thế gian cười” được mang nhiều ý nghĩa:

Thể hiện niềm vui được thỏa mãn mơ ước lên cõi mộng tưởng

Thể hiện sự mỉa mai, giễu cợt khi Tản Đà ở vị trí cao hơn cõi trần ô trọc mà ông đang sống.

Câu 4 trang 156 SGK văn 8 tập 1

 

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ nằm ở:

 

Cảm xúc dồi dào, ngòi bút phóng khoáng đã tạo ra cuộc trò chuyện tưởng tượng lý thú, hấp dẫn

Thái độ sống "ngông" của tác giả tạo ra giọng điệu ngang tàng khác thường

Có những cách tân mới khi thể hiện cái "tôi"- khác với thơ Đường cổ điển.

III. Luyện tập bài Muốn làm thằng Cuội lớp 8

Câu 1 trang 157 SGK văn 8 tập 1

 

Nhận xét về phép đối:

 

Trong câu 3 – 4:

 

Về hình ảnh: cung quế- cành đa

Về hành động: ngồi- nhắc

Đối về ý tứ: thăm dò-đề nghị

Trong câu 5 – 6:

 

Đối về ý: bầu bạn- gió mây, tủi- vui

Câu 2 trang 157 SGK văn 8 tập 1

 

So sánh với “Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan:

 

Văn bản

 

Ngôn ngữ

 

Giọng điệu

 

Qua đèo ngang

 

Cổ điển, trang nghiêm

 

Trầm buồn, trang nhã tạo

 

Muốn làm thằng Cuội

 

Giản dị, đời thường

 

Nhẹ nhàng, trữ tình, pha chút hóm hỉnh, ngông nghênh

Leave a Comment