Soạn bài Ông Đồ ngắn gọn đầy đủ

Kéo xuống để xem hoặc tải về! Tải file Bài soạn 1 chi tiết I. Tác giả, tác phẩm1. Tác giả ( các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Vũ Đình Liên trong …

Kéo xuống để xem hoặc tải về!

Bài soạn 1 chi tiết

I. Tác giả, tác phẩm
1. Tác giả ( các em tham khảo phần giới thiệu tác giả Vũ Đình Liên trong SGK Ngữ văn 8 Tập 2).
 
2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều, nhưng chỉ với bài Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.’

* Thể thơ: Bài thơ Ông đồ được viết theo thể thơ 5 chữ.

* Bố cục: Bài thơ Ông đồ có thể được chia làm 3 phần:


 
Phần 1: khổ thơ 1 + 2 : Hình ảnh ông đồ xưa.
Phần 2: khổ thơ 3 + 4 : Hình ảnh ông đồ nay.
Phần 3: khổ cuối : Hoài niệm của tác giả đối với ông đồ.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1:

* Hai khổ thơ đầu:

Hình ảnh ông đồ viết chữ cho ngày tết là một hình ảnh đẹp. Ông xuất hiện cùng với “hoa đào”, “mực tàu”, “giấy đỏ”. Ông đem lại niềm vui cho nhiều người khi viết những câu đối tết. Bao nhiêu người nhờ ông, tấm tắc khen ngợi tài viết chữ của ông.

* Khổ 3 + 4:

Vẫn diễn tả hình ảnh ông đồ trong không gian ấy, thời gian tết đến xuân về nhưng không khí đã có điểm khác biệt: trở nên vắng vẻ qua từng năm, và dần dần không còn ai thuê ông đồ viết chữ như trước nữa. Giấy cũng buồn, mực cũng sầu theo. Ông đồ vẫn ngồi ở vị trí đó, nhưng có vẻ như người ta không ai nhận ra ông, không ai chú ý đến ông nữa, ông gần như bị lãng quên.

* Sự khác nhau trên gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm với ông đồ, ông như đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang dần bị lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời.

Đặc biệt, hai câu thơ:

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Đây không chỉ đơn giản là hai câu thơ tả cảnh mà còn là hai câu thơ miêu tả cảnh ngộ và tâm trạng của ông đồ. Lá vàng rơi là biểu hiện của sự tàn úa, lại còn kèm theo mưa bụi bay càng thể hiện sự lãnh lẽo và thảm sầu.

Câu 2:

Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ:

Năm nay đào lại nở

Không thấy ông đồ xưa.

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ?

Nhờ kết cấu đầu cuối tương ứng, cảnh thiên nhiên được hiện lên tươi đẹp còn ông đồ vắng bóng bị dòng đời, bị thời gian quên lãng. Câu hỏi tu từ ở cuối khổ thơ đã thể hiện nỗi niềm thương tiếc của tác giả với ông đồ, với giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc và hơn thế là sự cảm thương một lớp người đã trở thành quá khứ.

Câu 3:

* Bài thơ này hay ở những điểm nội dung và nghệ thuật:

Về nội dung: bài thơ đề cập đến vấn đề có tính vĩnh cửu và khá phổ biến: số phận của con người trong sự thay đổi của cuộc đời. Hơn thế nữa, vấn đề đó lại được gắn chặt với niềm tiếc thương một nét đẹp văn hóa dân tộc càng khiến cho cảm xúc bài thơ trở nên sâu lắng hơn.

Về nghệ thuật:

Thể thơ 5 chữ, kết hợp với lời lẽ dung dị, không có những câu chữ cầu kì, khó hiểu, cùng với hình ảnh thơ gợi cảm, nhuốm đầy tâm trạng.
Kết cấu đầu cuối tương ứng: vẫn là không gian đó, vẫn là thời gian giáp tết, vẫn là hoa đào nở, nhưng hình ảnh ông đồ ngày càng nhạt nhòa dẫn, và cuối bài thơ không thấy xuất hiện hình ảnh ông đồ nữa.
Cách dựng cảnh tương phản: một bên thì tấp nập, đông vui; một bên thì buồn bã, hiu hắt. Một bên thì nét chữ như rồng bay phượng múa; một bên thì giấy bút buồn không thắm, mực đựng trong nghiên sầu.
Câu 4:

Những câu thơ:

Giấy đỏ buồn không thắm 

Mực đọng trong nghiên sầu…

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay.

Đây là những câu thơ không chỉ tả cảnh, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa để làm cho những vật vô tri vô giác (giấy, nghiên mực,…) như cũng biết sầu giống con người. Phải chăng cái buồn của ông đồ đã làm nhiễm sang cảnh vật? Là vàng lại rơi trên giấy không thắm, mưa bụi lại làm cho cảnh vật như bị nhòe mờ. Ông đồ vốn đã bị lãng quên, nay càng bị khuất lấp. Chính những câu thơ này đã làm cho người đọc có ấn tượng và nỗi ám ảnh sâu sắc.

Bài soạn 2

Câu 1:

 – Trong 2 khổ thơ đầu: hình ảnh ông Đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp. Ông xuất hiện cùng với "hoa đào", "mực tàu", "giấy đỏ". Ông đem lại niềm vui cho nhiều người khi viết câu đối tết.

– Khổ 3+4: vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy, nhưng không khí khác: vắng vẻ theo từng năm, đến giờ thì hầu như không còn "người thuê viết". Giấy cũng buồn, mực cũng sầu.

=> Sự khác nhau gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm ông đồ, ông đang bị gạt ra ngoài cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời.

Câu 2:

Nỗi lòng của tác giả đối với ông đồ: Nỗi niềm thương tiếc của tác giả đối với ông đồ, với giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc.

Câu 3:

   Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật:

– Cách dựng cảnh tương phản

– Kết cấu đầu cuối tương ứng.

– Bài thơ làm theo thể năm chữ. Lời lẽ dung dị, không có gì tân kì. Những hình ảnh thơ gợi cả, sinh động và nhuốm đầy tâm trạng.

Câu 4:

   Những câu thơ "giấy đỏ buồn không thắm – mực đọng trong nghiên sầu- lá vàng rơi trên giấy – ngoài giời mưa bụi bay" là những câu thơ tả cảnh ngụ tình. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa làm cho giấy – mực, những vật vô tri vô giác cũng biết sầu buồn. Nỗi cô đơn hắt hiu của con người khi bị bỏ quên. Cảnh vật tàn tạ, thiên nhiên cũng buồn theo nỗi buồn của con người.

Bài soạn 3

Câu 1: Hãy phân tích hình ảnh ông đồ ngồi viết chữ nho ngày Tết trong hai khổ thơ đầu và hình ảnh của chính ông đồ ở khổ 3,4. Hãy so sánh…
Trả lời:
Hai khổ thơ đầu: là hình ảnh ông đồ trong xưa cũ, phố xuân tấp nập, người người thuê viết, khen chữ ông đồ
Hai khổ thơ sau: ông đồ vẫn ngồi ở phố ấy nhưng nay mọi người đã không còn thuê viết chữ nhiều
=> Gợi lên sự cô đơn của ông đồ, khung cảnh xơ xác, tiêu điều, buồn man mác khi những giá trị truyền thống đang bị mai một dần.

Câu 2: Tâm tư nhà thơ thể hiện qua bài thơ như thế nào?
Bài làm: 
Khổ 1,2: kí ức về ông đồ xưa
Khổ 3,4: khung cảnh HN mới, ông Đồ không còn nhiều khách
Khổ 5: hình ảnh thự tại khi không còn ông đồ.
=> Cho thấy niềm cảm thương trước một lớp người đang tàn tạ ( ông đồ) và nỗi nhớ cảnh, người xưa cũ

Câu 3: Bài thơ hay ở những điểm nào?
Trả lời
Bài thơ hay ở: thể thơ ngũ ngôn, hình ảnh đối lập tương phản, ngôn ngữ giản dị, gợi hình gợi cảm.

Câu 4: Phân tích để làm rõ cái hay của những câu thơ sau: “Giấy đỏ buồn không thắm…Ngoài giời bụi mưa bay.”
Trả lời:
Những câu thơ này vừa tả cảnh vừa tả tình.

Cảnh: khung cảnh tiêu điều, xơ xác, sự cô đơn lạc lõng của ông đồ già giữa chốn thị thành mới.
Tình: nỗi tiếc thương, sự trân trọng thành kính với ông đồ và lớp người xưa cũ.

Bài soạn 4

Câu 1 (trang 10 sgk Văn 8 Tập 2):

– Hình ảnh ông đồ ngồi viết chữ nho ngày Tết trong hai khổ thơ đầu:

      + Cảnh vật, không khí tươi vui: hoa đào nở, mực tàu, giấy đỏ, phố đông người qua,.

      + Ông đồ với những nét chữ phượng múa rồng bay được bao nhiêu người thuê viết và tấm tắc ngợi khen,..

⇒ Đây là một hình ảnh đẹp, ông đồ viết câu đối Tết đem lại niềm vui cho mọi người.

– Hình ảnh ông đồ trong khổ 3, 4:

      + Vắng khách, giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu,..

      + Ông đồ ngồi lặng lẽ, không mấy người để ý đến ông nữa, ông đồ như nhạt nhòa trong làn mưa bụi,..

⇒ Đây là một hình ảnh đáng buồn, chữ Nho không còn được coi trọng thì cũng không còn ai muốn viết câu đối ngày Tết, ông đồ dần rơi vào quên lãng.

– Sự khác nhau giữa hình ảnh ông đồ ở hai khổ đầu với hình ảnh ông đồ ở khổ 3, khổ 4 là:

      + Trước đây ông là trung tâm của sự chú ý, được mọi người ngợi khen, thán phục.

      + Giờ đây ông đã dần bị lãng quên, không ai ngó ngàng tới (qua đường không ai hay)

– Sự khác nhau ấy gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm cho ông đồ, ông đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với những gì gắn với chữ Hán và nền Nho học đã đến lúc tàn tạ.

Câu 2 (trang 10 sgk Văn 8 Tập 2): Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ:

– Nhà thơ cảm thương cho ông đồ, cũng chỉ là cảm thương khi một lớp người đã dần bị quên lãng.

– Nhà thơ còn tiếc thương, hoài niệm về một nét đẹp truyền thống, một vẻ đẹp văn hóa đang dần bị phai mờ và biến mất.

Câu 3 (trang 10 sgk Văn 8 Tập 2): Bài thơ hay ở những điểm sau:

– Cách dựng hai cảnh cùng miêu tả ông đồ ngồi viết thuê ngày Tết bên phố nhưng rất khác nhau: Một bên là tấp nập, đông vui, một bên buồn bã, hiu hắt.

– Những chi tiết miêu tả đầy gợi cảm:

      + Một bên hoa tay thảo những nét chữ như phượng múa rồng bay, bao nhiêu người thuê viết,.. gợi cảnh đông đúc, chữ viết của ông đồ được trân trọng.

      + Một bên giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu, lá vàng rơi trên giấy, ngời giời mưa bụi bay,.. gợi cảnh thưa thớt, chữ viết của ông đồ đã không còn được trọng dụng.

– Sử dụng thể thơ 5 chữ và ngôn ngữ giản dị, cô đọng mà hàm súc

Câu 4 (trang 10 sgk Văn 8 Tập 2): Các cặp câu thơ đều không chỉ tả cảnh mà còn tả tình:

– Giấy đỏ buồn không thắm

Mực đọng trong nghiên sầu

Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hóa làm cho giấy, mực, những vật vô tri, vô giác cũng đã trở nên có tình cảm như con người, biết sầu, biết buồn. Như vậy nỗi buồn của ông đồ đã lan sang những vật xung quanh.

– Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài giời mưa bụi bay

Những tờ giấy không được viết cứ nằm một chỗ đã gợi sự tẻ nhạt, buồn bã. Nhưng càng buồn hơn khi ông đồ vắng khách và không ai để ý đến ông, ông cũng để mặc những chiếc lá vàng rơi trên giấy. Ngoài trời những cơn mưa bụi càng làm cho mọi vật nhòe mờ. Ông đồ đã thực sự bị lãng quên.

⇒ Những câu thơ trên không chỉ là nỗi buồn của cảnh vật mà còn gợi được nỗi buồn trong lòng người.

Nhận xét – Ý nghĩa
– Ông đồ của Vũ Đình Liên là bài thơ ngũ ngôn bình dị mà cô đọng, đầy gợi cảm.

– Bài thơ đã thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của "ông đồ", qua đó toát lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ.

Bài soạn 5

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
1. Nhà thơ Vũ Đình Liên (1913 – 1996), quê ở Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương.

Vũ Đình Liên nổi tiếng với bài thơ Ông đồ từ phong trào Thơ mới. Nhiều năm ông làm nghề dạy học. Từng là Chủ nhiệm khoa Tiếng Pháp, Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ, là thành viên nhóm văn học Lê Quý Đôn (gồm : Lê Thước, Trương Chính, Lê Trí Viễn,…).

2. Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Tuy sáng tác thơ không nhiều, nhưng chỉ với bài Ông đồ, Vũ Đình Liên đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới.

Bằng thể thơ năm chữ, kết cấu giản dị, ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, bài thơ Ông đồ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của ông đồ, qua đó gợi lên niềm cảm thương chân thành trước một lớp người bị gạt ra lề cuộc sống, và nỗi hoài niệm, nhớ tiếc một thời lịch sử của đất nước.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
1. Trong hai khổ thơ đầu, hình cảnh ông đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp. Đây là cái thời đắc ý của ông. Ông xuất hiện cùng hoa đào, với mực tàu giấy đỏ. Ông đem lại niềm vui cho mọi người khi viết câu đối Tết. Bao nhiêu người nhờ ông. Bao nhiêu người tấm tắc khen ngợi ông. Ông viết câu đối mà như người biểu diễn thư pháp : Hoa tay thảo những nét – Như phượng múa rồng bay.

Khổ thơ 3 và 4 vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy. Song là một không khí khác : Nhưng mỗi năm mỗi vắng. Không phải là vắng ngắt ngay lập tức, mà theo thời gian. Người cần đến ông cứ giảm dần. Và bây giờ thì hầu như không thấy họ : Người thuê viết nay đâu ? Giấy cũng buồn vì cảnh này, mực cũng sầu vì không được dùng vào việc viết. Ông đồ vẫn có mặt, nhưng người ta đã không nhận ra ông. Người ta chẳng còn chú ý đến ông nữa. Bởi thế mà ông như nhòa lẫn trong lá vàng và mưa bụi. Sự khác nhau của hai hình ảnh ông đồ chủ yếu ở vị trí của ông với công chúng. Trước ông ở trung tâm của sự chú ý. Nay ông ra ngoài rìa của sự chú ý, gần như bị lãng quên.

Sự khác nhau này gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm cho ông đồ, ông đang bị gạt ra rìa cuộc sống, ông đang bị lãng quên cùng với nhũng gì gắn với chữ Hán, với tâm lí chuộng thú chơi câu đối một thời. Hai câu thơ : Lá vàng rơi trên giấy – Ngoải giời mưa bụi bay không chỉ là hai câu thơ tả cảnh mà còn là hai câu thơ tả tâm trạng, tả cảnh ngộ của ông đồ. Lá vàng rơi, một biểu hiện của sự tàn úa. Lại kèm với mưa bụi bay. Lạnh lẽo và buồn thảm.

2. Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ một cách kín đáo. Tác giả đã mô tả hai cảnh đối lập và gợi niềm thương cảm ông đồ một cách gián tiếp. Chỉ đến phần cuối bài thơ, khi không còn thấy ông đồ, tác giả mới thốt lên :

Những người muôn năm cũ

Hồn ở đâu bây giờ ?

Không chỉ cảm thương cho ông đồ, nhà thơ còn cảm thương một lớp người đã trở thành quá khứ. Hơn thế nữa, sự hoài cổ còn là hoài niệm một vẻ đẹp văn hoá gắn với những giá trị tinh thần truyền thống. Chính vì thế mà bài thơ có sức lay động sâu xa.

Không chỉ hay ở nội dung hoài niệm, bài thơ còn hay ở nghệ thuật. Trước hết là dựng cảnh tương phản. Một bên tấp nập, đông vui; một bên buồn bã, hiu hắt. Một bên nét chữ cũng như bay múa : phượng múa, rồng bay ; bên kia cả giấy cũng buồn, cả mực cũng sầu, thêm nữa lại kèm lá vàng, mưa bụi.

Kết cấu đầu cuối tương ứng. Cũng là thời gian ngày áp Tết, cũng là không gian mùa xuân, cũng vẫn có hoa đào nở. Nhưng hình ảnh ông đồ thì cứ nhạt nhòa dần. Cuối cùng thì không thấy ông đồ nữa. Ông đã thành ông đồ xưa. Không phải là ông đồ cũ. Ông đã thành xưa, như không còn tồn tại nữa.

Bài thơ làm theo thể năm chữ – thể thơ ngũ ngôn. Lời lẽ của bài thơ dung dị, không có gì tân kì. Nhung hình ảnh thơ gợi cảm. Hình ảnh : Hoa tay thảo những nét – Như phượng múa rồng bay thật sinh động. Những hình ảnh : Giấy đỏ buồn, không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu – Lá vàng rơi trên giấy – Ngoài giời mưa bụi bay không phải chỉ là hình ảnh thiên nhiên đơn thuần, mà là thiên nhiên nhuốm đầy tâm trạng.

4. Những câu thơ : Giấy đỏ buồn không thắm – Mực đọng trong nghiên sầu ; Lá vàng rơi trên giấy – Ngoài giời mưa bụi bay là những câu thơ không chỉ tả cảnh. Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá làm cho giấy, mực – những vật vô tri – như cũng biết sầu buồn. Phải chăng, cái buồn của bản thân ông đồ cũng lan sang cảnh vật ? Lá vàng, mưa bụi thật là buồn. Lá lại rơi trên giấy không thắm, mưa bụi lại làm cho cảnh vật như nhoè mờ. Ông đồ đã bị lãng quên, càng bị khuất lấp. Nhũng câu thơ như thế đã làm cho bài thơ tạo được cho người đọc ấn tượng và ám ảnh sâu sắc.

Leave a Comment