Cảm nhận về tình cảm sâu sắc mà chú chó Bấc dành cho chủ nhân của mình

Bài văn số 1 So với các con chó khôn ngoan khác: “Con chó xấu xí” của Kim Lân, Mumu của Tuốc-ghê-nhép, con Mai-Cơn, con Rếch… hay gẩn gũi hơn là Con chó nhỏ mang …

Bài văn số 1

So với các con chó khôn ngoan khác: “Con chó xấu xí” của Kim Lân, Mumu của Tuốc-ghê-nhép, con Mai-Cơn, con Rếch… hay gẩn gũi hơn là Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh thì với chú chó Bấc, có phải Giắc Lân-đơn chỉ đơn thuần nói về sự khôn ngoan của nó hay là có một triết lí sâu xa nào đó mà ta chưa khai thác? Triết lí ấy có thể ta chưa thấy, hoặc chưa nhìn nhận thấu đáo được ngay lúc này, khi mà những trải nghiệm còn quá ít ỏi nhưng chắc chắc trong chúng ta, ai cũng cảm nhận được tình cảm sâu sắc mà chú chó Bấc dành cho chủ nhân của mình.

Tình cảm ấy được viết nên bởi một nhà văn trải qua thời thiếu niên vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống và sớm tiếp cận tư tưởng chủ nghĩa xã hội. Giắc Lân-đơn thường nhớ về đứa bé là mình lúc ấy “mơ tưởng đến một miếng thịt” và bản thân mình lúc ấy “như một con thú làm việc”. Ông tìm cách thoát khỏi trần ải lúc đó bằng hai con đường: một là văn học và hai là du ngoạn. Năm mười bảy tuổi, khi kiếm được một chiếc thuyền con và nhữngkhám phá từ chuyến du ngoạn biển cả đã giúp ông đoạt giải với thiên kí sự Bão biển Nhật Bản và là nguồn tư liệu quý báu để mười năm sau tiểu thuyết Bão biển ra đời. Năm 1897, ông lại lên đường theo cơn sốt tìm vàng. Tuy nhiên, ông không quan tâm đến vàng mà quan tâm đến công sức của con người vànhất là những điều họ đã trải qua. Cũng chính từ những trải nghiêm thực tế ấy và niềm say mê, tài năng văn học, Giắc Lân-đơn là một trong những nhà văn hào kiệt xuất sắc của thế giới, thường được so sánh với Mác-xim Go-rơ-ki của Nga. Tác phẩm của Giắc Lần-đơn dù viết theo thể loại nào cũng tập trung vào hai mảng lớn là mối quan hệ giữa con người với con người và mối quan hệ ; giữa con người với tự nhiên. Đằng sau các tác phẩm của ông là những giá trị nhân văn sâu sắc, là tình yêu cao cả và sự hòa mình của con người với môi trường tự nhiên.

Văn bản Con chó Bấc trích từ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã cũng vậy. Tác phẩm kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc Cực kéo xe trượt tuyết cho những người tìm vàng. Bấc đã trải qua cuộc sống ác mộng bên cạnh nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thooc-tơn là người có lòng nhân từ đối với nó, cảm hóa được nó. Về sau khi Thooc-tơn chết, nó hoàn toàn dứt bỏ con người và đi theo tiếng gọi nơi hoang dã, trở thành một con chó hoang. Có lẽ, trong cuộc đời của Bấc, dù qua tay nhiều ông chủ nhưng người duy nhất cho nó tình thương và được nó coi như chủ nhân thực sự chỉ có một. Đó là Giôn Thooc-Tơn. Đoạn trích tập trung thể hiện tình cảm của Bấc dành cho vị chủ nhân này.

Tình cảm ấy không tự nhiên mà có, nó xuất hiện từ chính tình yêu thương chân thành của Thooc-Tơn đã cảm hóa Bấc. chính vì thế, trước khi thể hiện tình cảm Bấc dành cho Thooc-Tơn, Giắc Lân-đơn tập trung miêu ; tả tình cảm Thooc-Tơn dành cho Bấc trong sự so sánh với những con người khác. Nếu như các ông chủ khác chăm sóc Bấc chỉ vì nghĩa vụ “đã nuôi thì phải chăm sóc” và vì lợi ích kinh doanh “kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng” thì ‘ Thooc-Tơn yêu thương và chăm sóc Bấc bằng cả trái tim. Ihooc-Tơn là ông chủ lí tưởng chăm sóc Bấc như thể “chúng là con cái của anh vậy”. Trong ý nghĩ, tình cảm dường như anh không xem Bấc là một con chó, mà là một người bạn cùng anh làm việc, cùng anh trải qua, nương tựa vào nhau vượt lên gian khổ trong cuộc sống, chính tình cảm ấy đã cảm hóa và bồi đắp tình cảm Bấc dành cho Thooc-Tơn. Con đường đến trái tim không có gì gần gũi và chân thật hơn là xuất phát từ trái tim. Và chỉ có một tình cảm mãnh liệt như thế mới đủ sức mạnh cảm hóa người khác.

Bấc dành cho Thooc-Tơn tình cảm đặc biệt, đó là tình yêu thương nồng nàn, sôi nổi, nồng cháy, tôn thờ và cuồng nhiệt. Đó là “tình yêu thưc sự và nồng nàn lấn đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Trước kia, khi sống tại nhà thẩm phán Mi-lơ, nó chưa hề xuất hiện một tình cảm nào giống vậy, đó chỉ là “chuyện làm ăn cùng hội cùng phường”. Đó là tình cảm ngang hàng chứ không ngưỡng vọng như trong tình cảm dành cho Thooc-Tơn. Với những đứa cháu nhỏ trong gia đình ông Mi-lơ, đó là “trách nhiệm ra oai hộ vệ”; còn đối với ngài thẩm phán, đó là “thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”. Sự so sánh, nhớ lại ấy là cách để Bấc chứng minh, thể hiện tình cảm của mình với Thooc-Tơn – vị chủ nhân đặc biệt và duy nhất.

Tình cảm này ở Bấc cũng được biểu hiện rất đặc biệt trong việc tự so sánh với Ních và Xơ-kít. Nếu như Xơ-kít thể hiện tình cảm với Thooc-Tơn bằng sự nũng nịu vì vốn là một cô ả đơn giản và đơn điệu, có thói quen “thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thooc-Tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về. Mặc dù có phẩn mạnh mẽ hơn nhưng Ních cũng đơn giản, đơn điệu như Xơ-kít, lại có phần suồng sã trong hành động: “thường chồm lên tì cái đầu to tường của cu cậu lên đầu gối Thooc-Tơn”. Những nhận xét tỉ mỉ, tinh tế ấy không chỉ cho ta thấy nét riêng trong cách thể hiện tình cảm của từng con chó mà còn làm nổi bật nét khác biệt của Bấc.

“Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng”. Mặc dù nó cũng sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thooc-Tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, những nó không săn đón những biểu hiện ấy. Dù vậy, khi Thooc-Tơn biểu hiện tình cảm với mình, Bấc thể hiện bằng những cách rất riêng. Bấc tỏ ra sung sướng, ngây ngất mỗi khi được chủ ôm đẩu rủ rỉ rủa yêu, mỗi lúc ấy, Bấc cảm thấy “như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể’. Nó “bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động” khoái cảm vô tận.

Không chỉ thế, Bấc có tài “biểu lộ tình thương yêu gấn giống như làm đau người ta”. Nó thường “há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-Tơn rồi ép răng mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”. Cách thể hiện tình yêu này cũng giống như tiếng rủa yêu của Thooc-Tơn là lời nói nựng, những cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve của Bấc, mà nếu không đủ thân thiết và yêu thương, ta sẽ coi nó chẳng khác gì những vết cắn hằn học mà căm ghét, tức giận hay phẫn nộ với một chú chó.

Tình cảm của Bấc còn thể hiện trong những cử chỉ quan tâm thầm lặng. Nó thường “nằm phục ở chân Thooc-Tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lèn mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt”. Cũng có khi nó “nằm ra xa hơn, vê một bền hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng củ động, thân thể anh.” Bấc luôn dõi theo Thooc-Tơn bằng tình yêu và sự quan tâm, dù ở ngay gẩn dưới chân anh hay nằm xa hơn nữa, thậm chí là sau này khi trở về cuộc sống hoang dã, Bấc vẫn dành sự quan tâm đặc biệt ấy cho Thooc-Tơn, trở về nơi đã lấy đi tính mạng anh trong nỗi xót thương, niềm đau và sự căm giận hành động độc ác của con người.

Cứ như thế, Bấc và Thooc-Tơn thể hiện tình cảm dành cho nhau bằng đôi mắt. Đôi mắt luôn hướng vể Thooc-Tơn của Bấc và đôi mắt giao cảm luôn ngoảnh lại nhìn Bấc, đôi mắt ánh tỏa “tình cảm tự đáy lòng” của Thooc-Tơn đáp lại “tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó tỏa rạng ra ngoài”.

Bấc dành cho chủ nhân của mình một tình cảm phong phú và đặc biệt sâu sắc, vừa thương yêu, vừa tôn thờ, vừa kính ngưỡng, biết ơn, thuần phục tuyệt đối. Bấc có một tâm hổn khác hẳn những con chó khác. Sự nhạy bén và nhạy cảm còn khiến Bấc lo lắng vê’ tương lai. Việc thay đổi chủ liên tục để lại trong Bấc một nỗi ám ảnh, trong lòng nó “nảy sinh nỗi lo sỢ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài”. Nên ngay cả đêm, “ngay trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sỢ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua lạnh giá đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đêu đêu của chủ”.

Chỉ có tình yêu thương đích thực mới khiến nó lo lắng như vậy. Song củng chính nối lo lắng ấy lại khiến người ta trần trọng mỗi khoảnh khắc còn được gần bên và gắn bó với nhau hơn. Đối với Bấc và vị chủ nhân đích thực này có lẽ cũng vậy.

Bài văn số 2

Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của G. Lân-đân. Truyện là kết qủa của những chuyến đi cùng với cùng với các nhóm tìm vàng lên tận miền bắc Ca-na-đa gần Bắc cực. Tiếng gọi nơi hoang dã kể về số phận con chó Bấc. Bấc là một chú chó nhà khoẻ mạnh tinh khôn. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã phải qua tay nhiều ông chủ tàn bạo, độc ác. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn là ông chủ duy nhất thương yêu nó và cảm hoá được nó. Nhóm tìm vàng của Thoóc-tơn cùng lũ chó tiến sâu mãi vào núi rừng miền Bắc hoang vu, lạnh lẽo. Sống giữa thiên nhiên hoang dại, khắc nghiệt, tiếng gọi của rừng thẳm, của tổ tiên hoang dã cứ thức dậy trong lòng Bấc. Dần dần nó đã trở thành một con chó to lớn hung dữ, ranh ma, chỉ thờ phụng riêng mình Thoóc-tơn.

Nhưng rồi Thoóc-tơn và cả nhóm chết thê thảm trong rừng. Không cò gì có thể níu giữ Bấc với con người, nó mãi mãi đi theo tiếng gọi hoang dã của bầy sói rừng và trở thành một con sói thần khủng khiếp. Truyện hấp dẫn người đọc bởi cảnh thiên nhiên miền Bắc hoang dã, khắc nghiệt, dữ dội, đầy bí ẩn, bởi "xã hội" những người đi tìm vận may ở vùng đất bốn mùa tuyết phủ. Một xã hội có cả người mạnh mẽ, tự tin, dũng mãnh và nhân từ như Thoóc-tơn, có cả những kẻ tham lam, ngu xuẩn và độc ác như Han. Nhưng truyện còn đặc biệt hấp dẫn bởi những trang miêu tả đời sống tình cảm loài chó vừa sát thực, vừa sinh động. Do đâu mà tác giả có được những trang miêu tả đời sống "tâm hồn" con chó Bấc như đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 ? Chính là do khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.

G. Lân-đân không nhân cách hoá các con chó của ông. Ông chỉ miêu tả chúng một cách chính xác, tinh tế, tỉ mỉ. Những biểu hiện tình cảm của các con chó trong đoạn trích là của chung loài chó, nhưng nhà văn, với tài quan sát của mình vẫn thấy chúng khác nhau. Xơ-kít, Ních, Bấc đều yêu mến, trung thành với Thoóc-tơn, nhưng mỗi con có một biểu hiện riêng. Cô ả Xơ-kít thì thích được chủ vuốt ve, âu yếm. Nó "có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đên khi được vỗ về". Còn con Ních biểu lộ tình cảm sôi nổi vụng về hơn "thường chồm lên, tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn.

Đặc biệt, mọi hành động, mọi biểu hiện của Bấc được tác giả quan sát và miêu tả vô cùng tỉ mỉ, tinh tường. Dường như Bấc cũng có các cung bậc tình cảm như con người. Khi thì Bấc "bật dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời…". Ấy là lúc chú ta sung sướng ngây ngất khi được Thoóc-tơn đùa với nó, mắng yêu nó. Cũng có khi Bấc bộc lộ tình cảm như một đứa trẻ con: "Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu". Ấy là những lúc tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn phá bờ tràn ra mãnh liệt. Thật thú vị khi ta đọc những câu miêu tả sự tôn thờ của Bấc đối với Thoóc-tơn. Sự miêu tả ấy đúng hành động của loài chó mà chúng ta thường thấy, nhưng không nhận ra hết ý nghĩa của nó.

Chỉ đến khi đọc đoạn trích Con chó Bấc chúng ta mới hiểu được "loài khuyển mã chí tình" này : "Nó thường nằm phục ở chân Thoóc- tơn hàng giờ, mắt háo hức tỉnh táo nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt.", và "tình cảm của Bấc ngời lên qua ánh mắt toả rạng ra ngoài". Đặc biệt, tác giả đã hết sức nhạy cảm, tinh tế khi nhận xét : "Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về" chính là xuất phát từ nỗi sợ hãi bản năng, như là một dự cảm mơ hồ của Bấc về những nỗi hiểm nguy, về cả cái chết có thể ập đến với ông chủ bất cứ lúc nào.

Đó là nỗi sợ hãi mất Thoóc-tơn (mà sau này là sự thật thê thảm) : "Việc thay thầy đổi chủ luôn xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thooc-tơn lại cũng biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và hai anh chàng người lai Ê-cốt dã đi qua rồi biến mất trước đây. Ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ".

Đoạn trích Con chó Bấc thể hiện óc quan sát tinh tế, tài miêu tả loài vật của G. Lân-đơn. Nhưng sức hấp dẫn người đọc của đoạn trích, cũng như của toàn bộ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã không phải là ở đó mà là con chó Bấc kì lạ làm thức dậy trong lòng ta những tình cảm con người trong sáng vị tha. Ai có lòng thương yêu bao dung loài vật chân thành, người đó ít có khả năng làm điều ác, sẽ sống cao đẹp, lương thiện với con người.

Bài văn số 3

Mỗi chúng ta đều không khỏi xúc động trước sự gắn bó của chàng trai Santiago và bầy cừu của mình. Một lần nữa, tình cảm giữa người và loài vật còn được nhà văn Jack London khắc họa đậm nét qua đoạn trích “ Con chó Bấc” trích trong tiểu thuyết “ The call of the wild”( “ Tiếng gọi nơi hoang dã”). Ta cũng không khỏi ngỡ ngàng trước sự thông minh của chú chó.

Cuộc gặp gỡ giữa Bấc và Giôn Thooc-ton là một điều may mắn với nó, bởi đó là “ một ông chủ lý tưởng”. Khi nhìn lại những bước ngoặt cuộc đời mình, nó chưa thấy người chủ nào yêu thương mình thực sự như Thooc-ton. Với ông Thẩm, “ đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”, còn với những đứa nhỏ của ông “ là trách nhiệm”, cho tới Pe-ron, Pho-rang-xoa, E-cot vì “ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh”… Họ chỉ lướt qua số mệnh của nó như một cơn gió mà chẳng để lại những lưu luyến. Thooc-ton không chỉ là ân nhân của Bấc khi cưu mang nó mà còn dành tình thương yêu cho chó như là con cái của anh.

Cách anh đối xử với đàn chó thật thân thiết: lời chào hỏi, nói chuyện thân mật… Những lúc trò chuyện “ tầm phào” ấy cũng giúp ta cảm nhận được, tình cảm chân thành, giản dị của  người chủ tới mỗi con vật cưng. Bằng một loạt động từ, nhà văn tái hiện một cách chi tiết tình cảm nồng nàn của Thooc-ton với Bấc: “ túm chặt lấy đầu, dựa đầu anh vào đầu nó, đẩy tới đẩy lui, khẽ thốt lên những tiếng rủa”. Tình thương yêu được bộc lộ qua hành động cụ thể, không chút vụ lợi mà xuất phát từ trái tim nhân hậu. Ông chủ ấy trân trọng, muốn chở che, đùm bọc những chú chó. Có lẽ Thooc-ton lắng nghe tiếng nói của Bấc khi anh muốn kêu lên: “ Đằng ấy hầu như biết nói đấy”. Tấm lòng của anh là giai điệu của tình yêu níu giữ bản chất lương thiện nó, là sợi dây cương vững vàng để con vật không nghe theo tiếng gọi của bản năng.

Nhà văn Jack Lon-don có biệt tài đi sâu vào khắc họa thế giới của loài vật. Đó không chỉ cuộc sống hoang dã của bầy sói ở Bắc cực trong tiểu thuyết “ Nanh trắng” mà đoạn trích này, tác giả còn xây dựng hình ảnh Bấc là con chó tinh khôn. Nó thực sự được thuần hóa khi sống trong vòng tay của Thooc-ton. Cách nó đáp trả tình cảm của chủ những lần vui đùa thật độc đáo. “ Há miệng ra cắn lấy bàn tay, ép răng xuống thật mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”.Cách đùa giỡn đó được Thoo-ton bằng lòng coi như cử chỉ vuốt ve. Giữa họ có một mối giao cảm mạnh mẽ để hiểu tình cảm của đối phương, cái nhìn của chú chó có sức mạnh kì diệu khi hai đôi mắt gặp nhau đều ngời lên tình cảm tự đáy lòng.

Tâm trạng của Bấc khi đón nhận sự chăm sóc của ông chủ cũng cho thấy nó là con vật nhanh nhẹn, đáng yêu. “ Vùng dậy trên hai chân,miệng cười, mắt long lanh”, nó hiểu được tình cảm tuyệt vời của chủ, một dòng cảm xúc mãnh liệt trào dâng trong lòng nó: “ không có gì vui sướng, tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì ngây ngất”. Khoảnh khắc ấy là giây phút nó thực được sống. Ngòi bút tinh tế của tác giả đi sâu vào thế giới nội tâm của chú chó như lí giải sự khôn ngoan của nó. Biện pháp nhân hóa được sử dụng khéo léo giúp ta cảm nhận được âm vang tâm hồn sâu thẳm của Bấc. Bao đêm nó đắm chìm trong suy nghĩ miên man, “ việc thay đổi chủ xoành xoạch…làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài”, “ sợ Thooc-ton cũng biến khỏi cuộc đời nó”. Suy ngẫm của con vật cho thấy nó đã “ từng trải” và dù mạnh mẽ thế nào trong kéo xe trượt tuyết, Bấc cũng mong muốn nhận được sự săn sóc của người chủ thương yêu nó thật lòng. Không chỉ con người mới có những sợi dây tình cảm phức tạp mà loài vật cũng tiếng nói cảm xúc riêng, Jack Lon-don thấu hiểu điều đó.

Với những nỗi niềm suy tư khiến Bấc có những cử chỉ khác biệt so với những chú chó khác. Nó luôn bị nỗi lo sợ xa cách ám ảnh nên có khi sực tỉnh “ vội vùng dậy không ngủ nữa, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…”. Ý nghĩ đó chi phối tình thương yêu của nó trở thành lòng “ tôn thờ”, nó không săn đón những cử chỉ của Thooc-ton mà dè chừng. Một chuỗi động từ tái hiện chính xác sự lanh lợi, khôn khéo của Bấc: “ nằm phục, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua…”. Trí tưởng tượng táo bạo của nhà văn giúp hình ảnh Bấc hiện lên sinh động qua trang viết. Đó quả là chú chó lanh lợi, trung thành.

Ta từng ấn tượng sâu sắc với tác phẩm “ Dế Mèn phiêu lưu kí” của nhà văn Tô Hoài được chứng kiến cuộc hành trình thú vị của chú dế Mèn với những quan sát tinh tế. Giờ đây, tâm trí ta cũng không khỏi xúc động trước tình yêu thương loài vật của nhà văn Mĩ Jack Lon-don trong đoạn trích “ Con chó Bấc” khi tác giả lách ngòi bút đậm tô một cách sáng tạo “ tâm tư tình cảm” của chú chó Bấc.

Bài văn số 4

rong văn học nghệ thuật, mỗi nhà văn lại tìm cho mình một hướng đi riêng. Ngay cả khi khai thác cùng một đề tài, họ cũng sẽ tìm cho mình một lối viết khác biệt để tạo nên cái tôi riêng. Phần lớn các sáng tác mà chúng ta đã đọc, các nhà văn đều tập trung vào miêu tả tâm lí nhân vật. Để khai thác tâm lí nhân vật không dễ một chút nào. Còn việc khắc họa tâm lí loài vật thì sao? Chắc chắn là khó hơn rất nhiều. Tác giả Jack London không ngại khó, ông đã viết về loài chó, một loài động vật vốn rất gần gũi với con người và khai thác cảm xúc của chúng như chúng ta thấy trong tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã. Con chó Bấc là một đoạn trích thuộc chương 6. Đoạn trích này cho chúng ta hiểu một cách rõ nét nhất về con vật này.

Không đi sâu vào việc tạo kịch tích cũng không đưa ra quá nhiều chi tiết nhưng Jack London lại tập trung khai thác khía cạnh tình cảm giữa con người và loài chó. Đây có lẽ chính là điểm hấp dẫn tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Nói về tình cảm của con người dành cho loài chó, chúng ta không thể không nhắc đến tình cảm của Thooc-tơn dành cho con chó Bấc. Có lẽ đối với bất kì loài vật nào Thooc-tơn cũng là một ông chủ lí tưởng. Từ sau khi mua lại Bấc, Thooc-tơn đã đối xử với nó một cách chân thành như đối với một người bạn nhỏ. Anh chăm sóc cho con Bấc tới khi nó trút hơi thở cuối cùng. Đối với những con chó kéo xe khác của anh, anh cũng đối xử với chúng như thể chúng là con cái của anh vậy. Với nhiều người, chó là một loài vật trung thành, thông minh và luôn nghe lời chủ nhưng trong mắt của Jack London thì không như vậy.

Chó không chỉ là loài vật giúp đỡ anh trong công việc mà còn là người bạn tri kỉ, người thân cùng anh làm việc và cùng anh vượt qua biết bao nhiêu gian khổ. Đặt Thooc-tơn bên cạnh những ông chủ cũ của Bấc, ta càng thấy hình ảnh của anh đẹp hơn, nổi bật hơn. Nếu như thẩm phán Mi-lơ chăm sóc Bấc xuất phát từ nghĩa vụ và trách nhiệm, những người tìm vàng xem Bấc là công cụ để họ kiếm lời thì Thooc-tơn chăm sóc Bấc như người cha chăm sóc con. Tình cảm anh dành cho Bấc xuất phát từ sự chân thành, có bình dị nhưng lại làm nên sức hấp dẫn.

Sự thông minh của Bấc giúp nó hiểu tất cả những cử chỉ âu yếm và tình yêu thương của Thooc-tơn dành cho nó. Chính vì vậy nó cũng dành cho anh thứ tình cảm vô cùng cuồng nhiệt. Con chó Bấc cũng biết phân biệt và nó đối xử với mỗi người chủ theo một cách khác nhau. Chẳng hạn như với gia đình thẩm phán Mi-lơ, nó đối xử theo một cách trịnh trọng và đường hoàng. Còn với Thooc-tơn thì khác. Nó yêu Thooc-tơn bằng một tình yêu nồng cháy, cuồng nhiệt và tôn thờ. Chưa bao giờ nó dành tình cảm như thế với ai. Cái cách mà Bấc thể hiện tình yêu của mình cũng thật đặc biệt, nó ép 2 hàm răng vào tay chủ.

Nếu những con chó khác luôn vồ vập và săn đón chủ thì Bấc chỉ lặng lẽ quan sát và tôn thờ chủ theo cái cách riêng của nó. Nhìn vào trong đôi mắt của Bấc, ta biết nó dành tất cả tinh yêu thương, sự tôn trọng, biết ơn và một sự thuần phục tuyệt đối đối với chủ của mình. Cũng chính tình yêu dành cho chủ đã khiến nó sợ phải xa chủ của mình. Nỗi sợ hãi bị mất Thooc-tơn cứ ám ảnh nó. Điều này thể hiện rõ trong chi tiết nó trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ. Có thể khẳng định một điều, tâm hồn của Bấc khác hoàn toàn so với những con chó khác. Và có lẽ cũng chỉ có Thooc-tơn mới có thể khơi gợi được tâm hồn ấy.

Jack London với tất cả tình cảm của mình dành cho loài vật nhỏ bé này, kết hợp thêm tài năng văn chương, ông đã xây dựng lên một hình ảnh con chó Bấc đầy chân thực, sinh động và hấp dẫn. Tình yêu của Thooc-tơn dành cho Bấc có lẽ cũng chính là tình yêu Jack London dành cho những chú chó, những người bạn thân thiết của con người. Hình ảnh con cho Bấc có lẽ sẽ còn sống mãi trong lòng độc giả.

Bài văn số 5

Khi Giấc Lân-đơn viết Tiếng gọi nơi hoang dã, câu chuyện về chú chó Bấc, mọi tâm tư, tình cảm của nó được dựng lên hết sức sinh động, gần gũi đến mức nếu chưa nắm bắt được cốt truyện, bất chợt đọc một đoạn nào dó, bạn đọc dễ lầm tưởng nhân vật chính trong truyện là một con người. Mặc dù câu chuyện được kể từ ngôi thứ ba nhưng có thể coi đó là si hóa thân toàn vẹn của nhà văn vào nhân vật.

Đoạn trích hầu như không có sự kiện nào đáng kể, chỉ là những tâm tư, tình cảm của Bấc đối với chủ, thế nhưng đây lại là một trong nhiều đoạn văn thành công của tác phẩm. Một phần nguyên do là bởi trong đó, những tâm tư, tình cảm của Bấc đã được miêu tả hết sức sâu sắc, thể hiện khả năng quan sát và cảm nhận nhạy bén, tinh tế của nhà văn.

Đoạn mở đầu chỉ có tính chất giới thiệu, nhưng không vì thê mà kém sức hấp dẫn. Đó là một thứ tình cảm hoàn toàn mới mẻ mà Bấc chưa từng cảm thấy bao giờ. Đối chứng cụ thế là mối quan hệ của Bấc với các thành viên trong gia đình thẩm phán Mi-lơ:

i những cậu con trai của ông Thẩm, tình cảm ấy "chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường".

Với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là "trách nhiệm ra oai hộ vệ".

Với ông Thẩm, đó là thứ "tình bạn trịnh trọng và đường hoàng".

Trong những mối quan hệ này, Bấc có vị thế hoàn toàn khác với một con chó thông thường. Đó không phải là môi quan hệ của một con vật nuôi đối với chủ mà là mối quan hệ bình đẳng giữa một con người với một con người. Nhưng điều quan trọng nhất là trong khoảng thời gian đó, Bấc chưa bao giờ cảm thấy một "tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt" như tình cảm đối với Thoóc-tơn. Đó là một cách mở đầu thực sự ấn tượng.

Trong mối quan hệ với Thoóc-tơn, vị thế của Bấc cũng không thay đổi. Nó tự coi mình là một người bạn trung thành. Có lẽ điểm mấu chốt tạo nên sự khác biệt trong tình cảm của Bấc chính là cách nghĩ của Thoóc-tơn. Đôi với Thẩm phán Mi-lơ và những người chủ khác, Bấc chẳng qua cũng chỉ là một con vật nuôi mà thôi (nói như ngôn ngữ của Bấc thì đó là quan hệ thuần túy vì công việc), dù nó có lập được bao nhiêu chiến tích đi chăng nữa. Nhưng Thoóc-tơn thì khác. Anh thực sự coi Bấc như một người bạn và đối xử với nó cũng như với một người bạn.

Những sự việc hằng ngày diễn ra trong mối quan hệ giữa Thoóc-tơn và Bấc được tác giả kể lại rất giản dị nhưng có sức hấp dẫn thật đặc biệt. Những cử chỉ, hành động được miêu tả xen kẽ với những chi tiết cụ thể, sinh động cho thấy tình cảm của Thoóc-tơn dành cho Bấc đã vượt qua mối quan hệ chủ tớ thông thường. Anh chăm sóc những con chó "như thể chúng là con cái của anh vậy". Bấc vốn là một con chó thông minh, nó hiểu những cử chỉ của chủ có ý nghĩa như thế nào, bởi vậy, nó cũng đáp lại bằng một tình cảm chân thành nhưng không kém phần nồng nhiệt. Bản thân nó quá đỗi vui sướng, đến độ "tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thế vì quá ngây ngất". Mỗi cử chỉ của Bấc cũng thể hiện quá nhiều ý nghĩa khiến cho Thoóc-tơn cũng như muốn kêu lên, tưởng như con chó đang nói với anh bằng lời chứ không phải chỉ qua hành động.

Cách biểu lộ tình cảm của Bấc cũng rất khác thường. Cái cách nó ép hai hàm răng vào tay chủ một lúc lâu cho thấy tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn mãnh liệt đến mức nào. Mặt khác, nó lại không hề vồ vập, săn đón như những con chó khác mà chỉ lặng lẽ tôn thờ, quan sát chủ theo một cách rất riêng mà chỉ nó mới có thể bộc lộ như vậy. Sự giao cảm bằng ánh mắt giữa nó và Thoóc-tơn đã nói lên tất cả sự ngưỡng mộ, thành kính, tình thương yêu của Bấc đối với người chủ mang trong mình những tinh cảm mà trước đó nó chưa từng cảm nhận được bao giờ.

Sự gắn bó về tình cảm giữa Bấc và chủ được thể hiện sâu hơn trong phần cuối của đoạn trích. Càng yêu chủ bao nhiêu thì Bấc lại càng sợ mất bấy nhiêu. Bởi vậy, nó luôn bám theo Thoóc-tơn và không rời anh nửa bước. Chi tiết Bấc không ngủ "trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…" rất sống động, có sức diễn tả lớn hơn cả những lời giãi bày trực tiếp, nó biểu hiện khả năng quan sát và miêu tả rất tinh tế của tác giả.

Sức hấp dẫn của đoạn trích này nói riêng và cả truyện ngắn Tiếng gọi nơi hoang dã nói chung đối với bạn đọc còn ở ý nghĩa xã hội sâu sắc mà nó đã gợi lên. Trong cuộc đua tranh khốc liệt để giành giật của cải, giành giật sự sống của con người, mọi quan hệ tình cảm đều bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Tình cảm, lòng yêu thương sâu sắc giữa Bấc và Thoóc-tơn là lời ca ca ngợi những tình cảm nhân hậu, cao quý, kêu gọi con người hãy tạm gác lại những đam mê vật chất để hưởng đến một cuộc sống tốt đẹp, có ý nghĩa hơn.

Leave a Comment